Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2016

Thế Phong

















Thế Phong
Đỗ Mạnh Tường
(10-7-1932 Yên Bái _ ...........)
trong giấy tờ tuỳ thân 1936.
Bút hiệu khác: Đinh Bạch Dân, Đường Bá Bổn

Nhà văn, nhà thơ, Dịch giả







Tiểu sử

Khởi sự viết văn cuối 1952.
Truyện ngắn đầu tiên Đời học sinh ký Tương Huyền đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hà Nội (17-11-1952), Ngô Vân, Chủ nhiệm).
Truyện dài đầu tiên in ở Sài Gòn: Tình Sơn Nữ (1954).

Tổng số trên 50 tác phẩm đủ thể loại: thơ, truyện, phê bình, khảo luận, dịch thuật.
Từ 1952, ở Hà Nội cộng tác với các nhật báo Tia sáng, Giang Sơn, tạp chí Quê hương, phóng viên các báo Thân Dân (Nguyễn Thế Truyền), Dân chủ (Vũ Ngọc Các) (Hà Nội: 1952-1954). Chủ nhiệm tuần báo Mạch Sống, Dương Hà chủ bút - báo chỉ xuất bản được một số rồi tự đình bản vào 1955 ở Sài Gòn.

Cộng tác viên, tạp chí ở Sài Gòn: Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Văn Nghệ Tập San, Văn Hoá Á Châu, Tân Dân, Tạp chí Sống (Ngô Trọng Hiếu), Sinh Lực, Đời, Nhật Báo Sống, Tuần báo Đời (Chu Tử), Trình Bầy, Tiền Tuyến, Sóng Thần (Uyên Thao), Lý Tưởng,v.v… -

Đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique (Paris 12-1970)
Đăng thơ trên tạp chí Tenggara, Kuala Lumpur - Malaysia) từ 1968-1972- sau in lại thành tập: Asian Morning, Western Music (Sài Gòn 1971, tựa Gs Lloyd Fernando).














Tác phẩm:





1
Truyện của người tình phụ
Đại Nam Văn Hiến tái bản, 1965



2
Khu rác ngoại thành
Trình Bày tái bản, 1966



3
Nửa đường đi xuống
Đời Mới tái bản, 1968



4
Thuỷ và T6
Đại Nam Văn Hiến tư bản, 1969



5
Nhà văn, tác phẩm và cuộc đời
Đại Ngã tái bản, 1970



6
Việt Nam Under Fire and Flames
thơ, Đại Nam Văn Hiến



7
South VN – The Baby in the Arms of the American Nurse
thơ, Đại Nam Văn Hiến



8
Thế Phong by Thế Phong
Tự sự kể, Đại Nam Văn Hiến



9
Asian Morning Western Music
(With the Preface of Professor Lloyd Fernando)
Đại Nam Văn Hiến, 1971


(và khoảng 30 tác phẩm Ronéotypé)



Chủ trương Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến.











TÁC PHẨM ĐÃ ĐĂNG TẢI TRÊN NEWVIETART - VIỆT VĂN MỚI





Thơ










Biên Luận
















































































































Văn - Truyện - Tiểu Thuyết











THẾ PHONG




NGƯỜI ĐƯỢC MỆNH DANH CÔN ĐỒ VĂN NGHỆ, CAO BỒI TRÍ THỨC HAY NGƯỜI LỮ HÀNH SUỐT ĐỜI ĐÓNG VAI KẺ LẠ MẶT, KHẬT KHƯỠNG ĐI VÀO CUỘC ĐỜI VỚI NIỀM KIÊU HÃNH TUYỆT ĐỐI TRƯỚC MỘT ĐỊNH MỆNH BI ĐÁT.


Thế Phong, chỉ hai tiếng đó khi đọc lên, âm thanh tỏa ra chưa kịp tan loãng, nét nhăn nhó, khó chịu đã xuất hiện rõ ràng trên gương mặt người đối diện. Vì muốn hay không, ít hay nhiều, những người làm văn nghệ tại đây cũng đã hơn một lần chạm mặt hay đọc tác phẩm của người mang tên đó. Thường thì họ phải đối đầu với cái dáng vẻ lạnh nhạt, cái kiêu căng lố bịch tới “không thể chịu nổi” trong những cuộc giao tiếp hoặc “lật tẩy” hay bị soi đèn vào tim đen. Mặc dầu căm thù, hậm hực nhưng họ vẫn muốn lại gần, phải chăng để tìm hiểu kỹ địch thủ trước khi hạ nhục, đập gẫy đối phương. Hay ở một cõi sâu kín nào của tâm hồn đôi lúc họ cũng cảm thấy khâm phục? - Nhưng có một điều chắc chắn và hiển nhiên là khoảng mười năm trở lại đây, hai tiếng Thế Phong được nhắc nhở nhiều nhất. Năm 1961 trong một cuộc hội thảo ở LE CAIRE, Cù Huy Cận tác giả Lửa Thiêng xưa cũng đã nhắc tới cái tên này với nhiều ngợi ca, khen tặng. Nói như thế không có nghĩa là cai tên đó thơm tho, đẹp đẽ gì, trái lại, chung quanh nó không biết bao nhiêu giai thoại, bao nhiêu điều tiếng xấu xa, ô trọc. Nhưng nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy: càng bị vùi dập, bôi nhọ bao nhiêu, tên Thế Phong lại càng thấy xuất hiện trên các tác phẩm bấy nhiêu (phần lớn là trên các tác phẩm in bằng ronéo). Hầu hết mỗi tác phẩm mang tên này được giới văn nghệ tại đây coi như là một cái gai, một cái gì rất chướng rất bực bội., Hồi đó, nội việc in sách vằng ronéo, in hình, in tên thật to cũng đủ làm mất cảm tình biết bao nhiêu người. Cái tôi vốn đã khó thương, lại còn sơn phết nữa thì làm sao ai chấp nhận cho nổi. Không những chỉ thế mà thôi, sau này những nhân vật góp mặt trong ĐNVH, một số cũng rập khuôn theo người chủ trương. Nghĩa là cũng ngông ngông nghêng nghêng, cũng cố tình làm ra cái vẻ bất cần đời, ra cái vẻ khác người, lấy sự khó chịu của người khác làm một điều vinh hạnh.


Riêng tôi ngay hồi chưa quen biết ông, tôi đã cho rằng thái độ của người bất cần đời là phản ảnh một trạng thái tâm lý bị phản bộ, bị hắt hủi tàn nhẫn. Những kẻ thù ghét khinh bạc cuộc đời bao nhiêu, chính là kẻ yêu cuộc đới tha thiết đắm say hơn ai hết. Những kẻ ra mặt lãnh đạm, chê bai, không thừa nhận người khác, là những kẻ trong thâm tâm chất chứa quá nhiều mặc cảm nhiều tỵ hiềm, vì họ thấy thua sút, hèn kém hơn kẻ khác, nên cố tạo bộ mặt khinh thị, cố mặt khoác cho mình một thái độ “mục hạ vô nhân” để che dấu mặc cảm tự ty, bất lực, họ ẩn náu và thu hình trong cái thế giới không tưởng tự tạo đó. Thế Phong, con người điển hình cho trường hợp tâm lý dồn nén này? Tiếc thay, những người làm văn nghệ tại đây lại không ngớt lời chửi rủa Thế Phong. Điều đó tuy có ve vuốt một phần nào tự ái của họ, nhưng vô tình họ đã tạo một lớp màn bí mật, huyền hoặc phủ quanh tên ông. Với bản tính tò mò, độc giả hoặc những người chú tâm tới sinh hoạt văn nghệ phải thắc mắc tự hỏi: “tên đó là ai, làm gì, mặt ngang mũi dọc ra sao mà ghê gớm láo lếu vậy? Rồi từ những, băn khoăn không được giải đáp thỏa đáng, người ta đã vẽ trong trí tưởng một hình thù, một khuôn mặt, một nếp sống, khác nhau tùy theo những giai thoại họ được nghe nhiều hay ít. Đồng thời họ cũng thích thú, ham mê khi được ai nói những gì liên quan tới người đó. Thói thường khi có nhiều người muốn nghe, biết về một trường hợp đặc biệt nào, thì tự nhiên cũng nẩy sinh một số người khác (thuộc loại thích khoác lác huênh hoang, thích tỏ ra ta đây là kẻ thao tin, biết nhiều, giao thiệp rôäng, nhất là được chứng tỏ mình rành rẽ tin tức hậu trường văn nghệ, đã không ngần ngại thêu dệt, bịa đặt thêm bớt nhiều về Thế Phong. Cuộc sống lang thang khó hiểu của ông lại làm tăng thêm mức độ tin của huyền thoại. Thế Phong làm gì? Tiền đâu đêå sống, tiền đâu đêå in sách nhiều thế dù cho sách RONÉO! Những câu hỏi này cũng được đặt ra cho chính những bạn hữu quen biết với ông nữa. Và tôi khi chưa quen biết ông cũng đã có sẵn cảm tình với ông râát nhiều khi đọc Lược Sử Văn Nghệ Viêät Nam, môät công trình biên khảo nhận định văn học công phu, nhưng tới khi đọc báo, nghe anh em nhắc bàn, xì xầm, tôi cũng đâm ghét và thầm nghĩ nếu có dịp sẽ ‘đập” cho hắn một trận. Tôi còn nhớ trên phụ trang văn nghệ nhâät báo ngôn luận (hồi còn mồ ma Tổng Ngô) cô (?) Kiều Diễm Hồng đã viêát vài lời nhắn nhủ những bậc phụ huynh nào có con em thì hãy nhớ đừng đặt cho nó cái tên Thêá Phong và hãy coi như cái tên đó không có trong từ ngữ VN. Nguyên do có một cô hay cậu học trò nào đó đăng bài trên phụ trang báo kia với bút hiệu Thế Phong, Ông viết thư yêu cầu cải chính!

Khoảng năm sáu năm trước, khi chưa tòng quân, tôi hay la cà vào buổi chiều trên Bonard, mỗi khi ngồi quán cà phê Kim Sơn, Thế Phong đi qua, là y như có người chỉ trỏ hay mách bảo nhau nho nhỏ. Từ hồi đó, trong trí nhớ tôi đã in đậm khuôn dáng ông. Một thân hình cao lớn vạm vỡ, tóc dài như tài tử, da đen xạm, mặt hình như lúc nào cũng đầy nét nhăn dữ tợn. Nếu không từng xem ảnh trên sách, cũng như nếu không có người cho biết, chắc tôi không thể ngờ rằng con người có vẻ thô lổ như vậy lại có thể là một nhà phê bình văn học, một văn, thi sĩ, kiên cả khảo cứu chính trị… Những thắc mắc, nghi hoặc cứ lởn vởn trong óc tôi. Không hiểu ông thuộc mẫu người nào? Đâu là khuôn mặt thực? Tôi cố để tâm dò hỏi. Nhưng như trên tôi đã nói: ông đi, ở, hiện, biến như một cái bóng. Tình trạng mù mờ kéo dài mãi cho đến khi tôi nhập ngũ. Tuy cuộc sống đã thay đổi và chính tôi; cũng không còn là tôi ngày nào nữa. Nhưng tôi vẫn theo dõi sinh hoạt văn nghệ ở đây. Mỗi khi giới văn nghệ xôn xao vì một cuốn sách nào đó dù chưa biết mặt mũi nó ra sao, tôi cũng có thể đoán được và ít lầm: lại Thế Phong tác giả.


Tiêu biểu nhất cho trường hợp này là những cuốn Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh, MƯỜI NĂM VĂN NGHỆ, NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG và gần đây Thế Phong NHÀ VĂN TÁC PHẨM CUỘC ĐỜI. Tôi xin đơn cử một trường hợp, khi Thế Phong cho in cuốn Mười Năm Văn Nghệ, ông xếp của tôi cũng từng viết văn in sách đã phải lên tòa soạn tạp chí Bách Khoa xem (Thế Phong có gửi biếu một cuốn tại đây). Không phải ông ấy quí hóa hay hâm mô gì Thế Phong, nhưng ông ấy tìm đọc xem trong đó có nói gì tới ông không?

*
Điều mong mỏi, ước ao được tiếp xúc với Thế Phong tiềm tàng trong tôi. Thỉnh thoảng nó lại khuấy động tâm hồn, mỗi khi tôi nghe một giai thoại, đọc một đoạn văn một trang báo có nói tới con người, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” này.

Cho tới một hôm, tôi cùng TTK xuống nhà in Nguyễn Trọng Gia Đình, điều đình in cuốn thơ của tôi. Bất ngờ, tôi gặp Thế Phong ở đầu ngõ cùng anh Năm Cao (chủ nhà in NT), TTK giới thiệu tôi với TP. Vừa bắt tay tôi ông vừa nói: “A! Tác giả mai em lấy chồng em đừng quên tôi đây. Em đã lấy chồng thì hơi đâu em còn nhớ nữa!”. Tôi không kịp nói gì, chỉ mỉm cười vì ông nói rất nhanh, rất nhiều và cũng rất lớn. Ngay từ phút đầu, không khí thân mật, cởi mở đã đến với chúng tôi. Ông kéo chúng tôi đi “vào đây uống tý cà phê nói chuyện thú hơn”.

Suốt buổi, ông nói chuyện huyên thuyên, tiếng sang sảng, giọng cười như thủy tinh vỡ, hầu như ông quên rằng trong quán còn có nhiều người khác nữa. Sau này tôi mới biết rằng đó là bản tính ông: coi thường tất cả, kể cả cuộc đời, mạng sống, tình yêu, tiền bạc…

Ông nói chuyện rất hấp dẫn, lôi cuốn, mặc dù rất lung tung, đang từ chuyện này, nhảy sang chuyện khác. Phần lớn những chuyện ông kể là những chuyện cười ra nước mắt, những gì xấu cũng như tốt về ông. Thí dụ ông kể chuyện trong một bữa tiệc tổ chức tại một biệt thự ở ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản (do Lý Trung Dung thết nhân dịp lễ giáng sinh 1959). Hồi đó ông và Lê Xuân Khoa đại diện cho văn hóa Á Châu. Ông ăn mặc rất xuề xòa, lại không ngồi cùng bàn với LXK, sang bàn Uyên Thao, Lý Đại Nguyên, bàn những người trẻ. Tới lúc vào tiệc, thay vì được như uống sâm banh Moet Chandon bằng ly đặc biệt như những bàn khác thì tên bồi ban lại mang ra ly thường (có lẽ tại thấy bàn này không có vẻ gì là đại khách), ngoài ra tên này còn không mang bánh bích quy “LU” tới. Ông lên tiếng hỏi tên bồi ba lần, tên này lơ đi, không thèm trả lời. Ông liền bảo cho gặp chủ nhân tức LTD , lúc đó, ông bồi giật mình, trở vào nói cho Dung biết, không còn cách nào hơn, LTD liền nhờ Phạm Xuân Thái (Tổng trưởng thông tin 1954 mà Thế Phong làm ủy viên báo chí) ra giàn xếp, nhưng khi PXT ra tới nơi đã muộn, ông đã dùng sâm banh cổ trắng rửa tay, tiếp theo là Uyên Thao rồi Lý Đại Nguyên lần lượt rửa theo ông vì lịch sự… Trước sự cởi mở, giản dị không kiểu cách, không mầu mè của ông, tôi ngạc nhiên vô cùng.

Với khuôn mặt đen xám, cùng những vết nhăn nheo chằng chịt trên trán, hai bên má, lại thêm cái cằm bạnh, tóc húi “cua” dựng ngược, lởm chởm, vẻ dữ tợn lại tăng thêm nữa. Khi hỏi ra, tôi mới biết lý do cạo tóc “để con nợ khỏi nhận diện”. Ngày xưa, ở ông đã không có cái dáng vẻ nghệ sĩ, nay lại càng không hơn nữa. Tôi có cảm tưởng nếu người nào không biết qua sách báo, lần đầu gặp ông, chắc chắn sẽ có cảm tưởng vừa tiếp xúc với một tên côn đồ, một anh lơ xe, chứ không thể nghĩ rằng ông là nhà văn, hay một người có tâm hồn nghệ sĩ.

Buổi sơ ngộ này, ông đã chiếm trọn vẹn cảm tình của tôi. Tôi cũng không ngờ cảm tình quý mến lại đến với tôi nhanh thế.

Trước khi về, TTK bảo tôi nên đưa tập thơ của tôi cho ông đề tựa. Ý kiến thật hay. Nhưng tôi còn ngập ngừng e ngại. Vì tuy giữa tôi và ông đã có được cái không khí cởi mở thân mật thật đấy, nhưng tôi cũng từng biết, đã hơn một lần, ông vứt tập thơ của một vị trung úy nhờ ông viết tựa, từ chối đề tựa cho một cuốn sách của nhà văn kiêm ký giả báo Dân Chủ. Nên tôi sợ ông từ chối lời ngỏ ý của tôi. Tôi không sợ thơ tôi dở, khiến ông phải từ chối, nhưng tôi sợ ông từ chối để thỏa mãn bản tính tự kiêu, tự đại, hay để lập thêm một thành tích “hiển hách”. Như vậy chẳng hóa vô tình tôi biến thành một thứ phương tiện để ông quảng cáo cái “TÔI” của ông trong những lúc vui với bạn bè. Cuối cùng tôi nghĩ: thì cứ thử một lần xem sao, biết đâu từ đây, chả nhìn thấy khuôn mặt thực của họ. Tôi ngỏ ý, ông nhận lời ngay với lời phụ chú: “nếu thơ anh hay, tự nhiên tôi sẽ viết, còn nếu dở, xin trả lại anh”. Lời nói làm tôi an lòng một phần nào.

Sáng hôm sau trở lại nhà in, ông đã có mặt tại đây. Ông lại rủ tôi và anh Năm Cao ra quán. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều về nhiều vấn đề, từ văn hóa chính trị, tới xã hội, quân sự, lãnh vực nào ông cũng tỏ ra rất thông thạo, nhất là khía cạnh quân sự, ông tỏ ra rành rẽ hơn tôi rất nhiều về chiến thuật, cả về súng ống… Thì ra xưa ông vốn là cựu sĩ quan của quân đội Pháp. Ở đây, ông cũng cho tôi biết đã đọc xong tập thơ tôi đưa và ngỏ ý khen. Bao nhiêu lo âu, áy náy về tập thơ đã tan biến.

Tối hôm đó, tôi lên nhà ông ở ngã tư Bảy Hiền, sát cạnh rừng cao su. Qua chiếc sân rộng, tôi bước vào nhà, gian ngoài, trên tường treo rất nhiều đối trướng. Qua chiếc cửa nhỏ, vào gian buồng trong rộng hơn, kê hai cái giường và hai tủ sách lớn, một bàn viết, trên có một chiếc máy chữ loại nhỏ. Khi thấy tôi, ông reo to, chạy ra. Có lẽ vì đang đánh máy, nên ông ở trần chỉ mặc mỗi một chiếc quần tắm bó sát. Trong lúc đó ông không khác gì một võ sĩ (mà sự thực ông cũng đã từng là võ sĩ hồi còn ở Hà Nội. Tôi được nghe một người bạn: nhạc sĩ Tiên Yên kể rằng, ngày xưa học cùng một lớp với ông ở trường Thăng Long, suốt ngày ông chỉ đánh nhau. Hồi đó người ta chưa dùng tiếng cao bồi như bây giờ mà người ta dùng chữ “Dân Càn” để chỉ chung những tên du đãng, đánh lộn. Có một điều khác biệt là thời Hà Nội 1950, học sinh du đãng cũng đánh nhau, nhưng đối tượng chính bao giờ cũng là Tây, nhất là Tây đen rạch mặt).

Chỗ làm việc của ông, rất gọn gàng, không bừa bãi vô trật tự. Trên tường phía tay phải, ngay chỗ kê chiếc giường ngủ, tôi đếm được 11 bức hình vừa vẽ vừa chụp đủ loại: nhìn ngang, nhìn thẳng, nhìn nghiêng, có cả một bức ảnh phóng to, chụp năm ông 22 tuổi, mặt mũi trông rất hiền lành, ngây ngô. Nhìn bức ảnh đó người ta khó mà đoán được rằng sau đó không bao lâu, ông đã thành một kẻ đập phá, ngang ngược nhất trong làng văn nghệ. Với những bức ảnh, tranh la liệt này, tôi có cảm tưởng ông mắc bệnh tự tôn? Một thứ bệnh mà nếu là kẻ thực tài, nó sẽ giúp họ tin tưởng mãnh liệt hơn nơi tài năng và là nguồn động lực đưa họ tới chỗ hăng say trong công việc. Nhưng nếu, nó chỉ phản ảnh một tâm hồn yếu đuối, bất tài, dựa vào đó để tự lừa dối mình, đánh lừa kẻ khác, thì ngược lại sẽ là một điều hết sức nguy hiểm. Bởi lâu dần, họ không còn nhìn thấy con người thật của họ nữa, ảo ảnh đã che mờ lý trí soi sáng chân dung đích thực.

Ông ngồi vừa nói chuyện với tôi vừa đánh máy, cuốn Thế Phong nhà văn tác phẩm cuộc đời. Nghĩ tới đâu ông đánh máy tới đó, không viết trước. Bên cạnh chiếc máy chữ là một ly cà phê to (loại ly sành) cùng hai bao bastos xanh “goũt” đặc biệt của ông. Ông uống cà phê như uống nước trà, và hút thuốc liên miên, ngay cả lúc đánh máy. Ngồi một lát, ông rủ tôi ra quán cà phê.

Sau một thời gian giao tiếp, tôi cũng không biết ông lấy tiền đâu để sống. Vì ngoài việc viết sách, ông không hề làm gì khác, cũng không hề viết báo. Chỉ biết ông về sống tại đây; nhà một người anh họ. Điều lạ hơn nữa là không bao giờ thấy ông than phiền về vấn đề tiền nong, hay kêu ca về những đau khổ mà cuộc đời đã dành cho ông. Không phải đời sống ông đầy đủ, không phải cuộc đời đã hậu đãi ông. Dĩ nhiên là thế! Hay ông là con người vô tư, đang sống trong hạnh phúc trong tình yêu tràn đầy? Tôi biết chắc cũng không phải. Thơ văn và thái độ của ông đã chứng tỏ hùng hồn điều đó. Tất cả những chuyện ông nói với tôi, tuy có chua chát, đắng cay, nhưng ông kể lại với một giọng hài hước dí dỏm, không một chút hậm hực, không một chút oán hờn than trách. Bất cứ ở đâu, chỗ nào ông cũng chỉ có một vẻ mặt: tươi cười, vui vẻ, một giọng nói vang động, vỡ nát. Nhưng tôi không tin tiếng cười, giọng nói đó đã phản ảnh mặt thực của tâm hồn ông.

Ở quán về, đêm đã khuya lắm, ông còn cố giữ tôi lại. Chúng tôi ra ngồi một chiếc ghế băng gỗ ngoài sân, dưới dàn hoa hồng giấy. Chiếc transistor để bên cạnh, phát ra những âm thanh kích động của một bản nhạc ngoại quốc… Chúng tôi im lặng hút thuốc. Mỗi khi đốm lửa xòe lên, lại một lần soi sáng khuôn mặt nhăn nheo, dữ tợn, lì lợm của ông. Nhưng không như mọi lần, ở đây mỗi khi liếc nhìn, tôi thấy ẩn sau những nét nhăn, có vẻ hung hãn kia, có một cái gì rất mỏng manh, rất khó nhận nhưng cảm được. Một nỗi buồn, một vẻ ưu tư trầm kín; cái cảm giác mơ hồ về một đớn đau, một khoắc khoải quằn quại, một chán chường, khốn nhục… Tôi không biết trong thâm tâm, lúc đó ông nghĩ gì? Hay không nghĩ gì? Tôi bỗng thấy buồn…. Bỗng thấy một niềm thương tiếc không đâu dâng lên rạt rào trong hồn tôi. Xa xa tiếng súng đại bác từ miệt Phú Lâm vọng tới. Ông thở dài nói như một mính: “tôi không còn gia đình thân thích nào ở đây cả. Trong đời tôi, tôi chỉ quý mến và nghe lời một người, đó là mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi không có ở đây, bố tôi cũng vậy. Tôi không anh em ruột thịt, một thân, một mình, chả cần! Sống theo những gì mà mình muốn, làm những cái gì mà mình thích làm. Vợ con chưa có, lỡ có chết có tai tiếng, điều gì, cũng chỉ một mình mình gánh chịu!” Dừng một lát, ông tiếp, giọng thật nhẹ, xa xôi, khác hẳn ngày thường, khiến tôi có cảm tưởng như tiếng nói đó không phải của ông mà của một ai xa lạ: “tôi không muốn để ai biết tôi buồn, nỗi buồn của tôi chỉ có tôi biết mà thôi, tôi cũng không muốn nhận hay mang ơn ai cả”.

Đốm lửa lóe lên soi sáng khuôn mặt u uẩn của ông một lần chót, rồi bị bắn vút vào khoảng tối đen. Tôi cũng rụt nốt mẩu thuốc. Hành động bắt chước, không mang theo ý nghĩa nào… Còn mười lăm phút nữa đến giờ giới nghiêm. Tôi đứng dậy ra về, sau khi nắm chặt bàn tay lạnh lẽo của ông (hay của tôi?) tiếng động cơ chiếc solex cũ, hơi đêm buốt giá làm tôi tỉnh táo. Nhưng nỗi buồn vơ vẩn lại lớn dần, lớn mãi, lấp đầy khoảng trống mênh mông trong lòng tôi.

Từ đó, tôi tìm đến với Thế Phong nhiều hơn, và chúng tôi cùng lang thang nhiều hơn. Mỗi lần giao tiếp, ông lại làm tôi thêm một lần ngạc nhiên vì tất cả những ức đoán ban đầu, cũng như những huyền thoại tôi được nghe về ông mất dần nội ý. Tôi bắt đầu nghĩ về ông với tất cả những mâu thuẫn, tương tranh. Càng muốn vào sâu tâm hồn ông, tôi càng cảm thấy bối rối, mù mịt, bất lực. Tôi không còn phân biệt nổi đâu là hư, đâu là thực nữa. Nếu sự thực ông là con người bất cần đời, coi thương tất cả, thì tại sao ông lại có thể hăng say tới độ cuồng nhiệt, đam mê tới độ khủng khiếp trong một ý thức sáng suốt về những hoạt động nghệ thuật văn chương. Ít nhất ông cũng phải có một niềm tin tưởng khẩn thiết về một giá trị nào đó, ông mới có thể mê man, hiến dâng như vậy.

Một hôm, một người bạn đã từng chung sống với ông trong những ngày đói rách nhất, những ngày chạy vạy từng đồng bánh mì, hay gói xôi, uống nước lã cầm hơi và trốn nợ, đã nói với tôi: “bọn chúng tôi đã bất công rất nhiều với nó (chỉ TP), nó là thằng nghĩ thế nào làm thế đó, không ác tâm, không ẩn ý, tại sao khi đến với nhau cứ phải đeo mặt nạ rồi đòi người ta phải thành thật với mình!”

Tôi băn khoăn rất nhiều về câu nói hàm xúc ý nghĩa này. Và giữa lúc bị dày vò, day dứt, tôi nảy sinh khao khát tìm kiếm đối diện với gương mặt tâm hồn ông.



TIỂU SỬ :

Thế Phong tên thật là Đỗ Mạnh Tường, sinh ngày 10-7-1932 tại Nghĩa Lộ, Yên Bái. Ông là đứa con cầu tự duy nhất còn sống sót trong số 5 anh em. Thân sinh ông là một nhà giáo, tham gia VNQDĐ, chống Pháp và Việt Minh, nên bị đày lên vùng thượng du. Bị bất đắc chí vì công đã không thành, danh lại chẳng toại, thân phụ ông sinh ra nghiện hút, bê tha. Tôi thấy hầu hết những người mắc bệnh nghiện thuốc phiệân thường rất ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình và chỉ mình mà thôi, ngoài ra không kể gì hết, dù cho vợ con cha mẹ. Thân phụ ông cũng thế. Nên mặc dù là con cầu tự, nhưng ngay từ hồi bé, ông cũng chỉ nhận được một tình thương yêu nồng nàn của mẹ. Còn cha ông, không những không thương mà lộ tỏ thái độ ghét bỏ và đánh đập hành hạ ông.

Một kỷ niệm sớm hằn sâu trong trí ông hồi 11 tuổi. Tại một nông trại làng Bửu (thuộc Yên Bái) cha ông sai ông đi mua thuốc phiện. Muốn đến nơi bán thuốc phiện phải lội qua một con suối, mà con suối đó đang ở vào thời kỳ nước lũ, nó chảy xiết vô cùng. Lần đi, trót lọt. Nhưng lần về, phần ngựa đã yếu sức, phần nước lại chảy xiết hơn, thác nước đã cuốn trôi mất ngựa và ông chới với giữa giòng. May sao ông bám được một rễ cây lềnh bềnh trên giòng nước, trong khi đó bên kia bờ cha mẹ ông đang đứng chờ. Tới lúc tìm cách lội về được bên bờ, cha ông không nói một lời an ủi thăm hỏi, cầm thuốc đi thẳng về nhà, chỉ có mẹ ông ôm lấy con mà khóc nức nở…

Mối oán giận người cha nghiện ngập này bắt đầu in hằn trong tâm trí ông. Sống giữa thiên nhiên, giữa núi rừng, suối thác, giữa cái rét thâm da, tím thịt của mùa lạnh trời Việt Bắc, ông sớm có một tinh thần chịu đựng, dẻo dai, cam đảm. Một trí hướng thích phiêu lưu mạo hiểm, tự lập, cộng thêm bản chất vốn hiếu động đã ảnh hưởng rất lớn tới thái độ, sự nghiệp văn chương của ông. Năm 11 tuổi dục tình nơi ông bộc phát.

Người con gái đầu tiên mà ông mê đắm là một cô bé cùng tuổi, học cùng trường, khi chiến tranh Pháp - Việt ngày càng tới độ khốc liệt, gia đình ông phải tạm lánh nạn ở một làng khác, tương đối bình yên hơn. Tại đây, ông gặp một cô gái Thái (đồng bào thiểu số tại miền thượng du BV) vợ một người lính, và đem lòng yêu, mê. Vì chuyện này, một lần nữa ông lại suýt chết, người lính kia dọa bắn ông. Mẹ ông hay biết, sợ quá, vội vàng gửu ông ra Hà Nội.

Thế là chưa quá 12 tuổi, ông đã xa gia đình, xa người mẹ mà ông yêu kính. Ông không ngờ lần đầu tiên và cũng là vĩnh biệt. Sống giữa Hà Nội, một đô thị phù hoa, lại thêm không phải lo nghĩ gì về mặt tài chính, ông cho rằng đó là khoảng thời gian đẹp nhất của đời niên thiếu. Những chuỗi ngày huy hoàng, gấm nhung, kéo dài tới năm 1952 thì ông mất liên lạc với gia đình (quân Pháp thất trận hoàn toàn tại Nghĩa Lộ). Sau này, năm 1957, tại Saigon, ông được một người quen biết xưa với gia đình cho biết: mẹ ông đã chết ngay khi Việt Minh chiếm được Nghĩa Lộ.

Năm đó ông vừa được 20 tuổi. Đang từ một học sinh ngày hai buổi rong chơi, trai gái, không biết lo nghĩ mưu sinh là gì, nay phải lăn xả vào đời, tranh tìm miếng sống. Nhờ hoàn cảnh xưa đã huấn luyện cho ông một sức chịu đựng, một tinh thần cam đảm, tự lập, nên ông vẫn sống được tại Hà Nội mặc dù lây lất đói khát. Sự mất liên lạc với gia đình đã biến đổi hẳn tâm tính con người ông. Sự tuyệt vọng, linh cảm một ngày mai đen tối, nỗi buồn ghê lạnh của một ý thức mất hết, ông bắt đầu có ý nghĩ mượn thơ văn giải tỏa phần nào nỗi cô đơn hoang mang. Bài đầu tiên được đăng trên báo là truyện ngắn “đời học sinh” nhật báo Tia Sáng tháng 11 năm 1952 với biệt hiệu TƯƠNG HUYỀN.

Sau gần hai năm trường, ngày lang thang ngoài phố, đêm tìm về ngủ dưới mái hiên nhà HÁT LỚN Hà Nội. Nơi đây, đêm đêm tập trung đủ mọi hạng từ ăn cắp, đánh giầy, đấm thuê, chém mướn v.v… Nếu đêm nào về chậm, sẽ không còn chỗ và phải ngủ ngoài trời hay vườn hoa. Từ đây ông bắt đầu làm quen với văn nghệ. Ông viết bài gửi cho các tờ Thân Dân, Dân Chủ. Tuy mỗi khi bài được chọn đăng, mấy ông chủ báo cũng có trả tiền nhuận bút, nhưng chả bao nhiêu vì bài của một tên vô danh tiểu tốt… Trong khi tất cả bạn bè, thân thuộc hầu như đều xa lánh và lẩn tránh ông như lẩn tránh một tên hủi, chỉ có một người bạn đã tận tình giúp đỡ ông đó là ông Nguyễn Thế Hiển.

Qua bao nhiêu cố gắng, chịu đựng, ông vẫn không thoát khỏi cái cảnh màn trời chiếu đất, đói rách. Thêm vào đó, sự hắt hủi xa lánh của mọi người, ông nghĩ không còn cách nào hơn là bỏ đi tìm cách khách.
Ông vào Nam trước khi có hiệp định Genève.

Tôi nhận thấy, thường khi đời sống của một người mà giá trị làm người bị chà đạp phũ phàng thì người đó hoặc sẽ buông trôi và chìm sâu trong cơn lốc của định mệnh bi thảm, hoặc, nếu vượt qua được, họ sẽ trở nên kiêu căng, liều lĩnh, dám làm những chuyện mà một người bình thường không dám làm hoặc không dám nghĩ tới.

Theo tôi có lẽ Thế Phong đã rơi vào trường hợp thứ hai. Dĩ vãng với hai lần suýt chết. Với thiên nhiên, giữa núi rường Việt Bắc. Tất cả đã sớm nung nấu cho ông một lòng tự tin, kiêu hãnh, ngạo mạn, cái vẻ hiên ngang thách đố thiên nhiên, định mệnh. Thêm một tâm hồn náo nức chân trời xa rộng… Mộng mạo hiểm, phiêu lưu bấy lâu tiềm tàng trong mạch máu, nay lại được dịp bộc phát mãnh liệt với niềm khát khao tìm bắt cả một tương lai huy hoàng sáng rực. Cuộc giang hồ từ Bắc vào Nam đã khơi hứng cho ông viết cuốn “nửa đường đi xuống” (ĐNVHXB 1961).

Những tưởng miền đất phù sa mầu mỡ như miền Nam, sẽ chịu cho người lãng tử bất đắc dĩ, tứ cố vô thân, nương náu; ai ngờ định mệnh vẫn chưa chịu buông tha con người bất hạnh đó. Ở Saigon ông lại tiếp nối cuộc sống tối tăm, khốn khổ, nhục nhã như xưa và có phần còn hơn thế nữa! Những ngày đầu tiên tại đây ông tìm về Xóm Chùa tá túc. Một khu đặc biệt tập trung những người thất cơ lỡ vận, chờ thời, đợi thế, và những người thuộc giai cấp thấp hèn nhất của cái xã hội công bình bác ái, như xã hội Việt Nam!

Từ đây, những trang sách của cuốn biên khảo phê bình văn học lược sử văn nghệ Việt Nam (4 cuốn), mà theo tôi mang một giá trị đáng ghi nhớ hơn cả trong sự nghiệp văn nghệ của ông.

Cũng bắt đầu từ đây, hoàn cảnh xô đẩy, dồn ép, ông đi đến chỗ không thể dừng: một tên bất nhân, quỵt tiền cơm trọ, trốn nợ tiền cà phê thuốc lá trong suốt sáu tháng liền. Cũng từ đấy, những mối tình lăng nhăng nảy sinh. Kết quả cụ thể nhưng đau đớn: một đứa con rơi, với một người đàn bà cùng xóm có chồng đi làm xa.
Thói thường, sự đói rách, nhục nhã là một mảnh đất mầu mỡ để tài năng bộc phát trọn vẹn. Hoàn cảnh xã hội đã tạo nên một Thế Phong với gần 40 tác phẩm đủ loại.

Thời gian ông sáng tác mạnh nhất có lẽ là thời gian ông yêu LB một cây bút nữ lưu. Sau nữa, CMN một người làm thơ nhanh như ống nước. Sự có mặt của hai người này đã khiến ông viết điên cuồng. Bằng chứng cụ thể là vì yêu LB mà ông cố gắng hoàn thành bộ lược sử văn nghệ VN. Cũng như nhờ mối tình thiết tha đắm đuối của CMN mà ông thêm vững tin nơi tài năng. Ông cho rằng CMN là người hiểu ông nhiều hơn ai hết và cũng cùng gánh chịu với ông rất nhiều điều tiếng xấu xa, nhiều nhục nhã, dè bỉu của thiên hạ, của cả gia đình nàng nữa.

Sở dĩ tôi chỉ nói về hai người đàn bà này, mà không nhắc tới những người khác, mặc dù họ có tham dự, có chi phối ít nhiều cuộc sống ông, vì ảnh hình họ chỉ là một thứ ảnh hình mờ nhạt, thoảng qua. Hơn nữa tôi khó có thể kể hết, vì họ quá đông đảo, đủ mọi thành phần, mọi giai cấp: lao động, me tây, gái nhẩy, đĩ điếm và cả học sinh… Với ông hầu như tất cả đều nhẹ, rất nhẹ, kể cả tình yêu, ông có tính thích cái gì thì làm cái đó, càng khó càng thích, nhưng phải làm cho bằng được, xong rồi lại chán và rất dễ quên. Kể cả chuyện hy sinh tính mạng, phẩm giá, ông cũng không ngần ngại, nếu đó là một phương tiện tốt cho mục đích tối hậu là phục vụ văn học nghệ thuật.

Về những hành động ngang tàng ngỗ ngược, khinh mạn kiêu căng ở trên, tôi đã có dịp nói tới với ý nghi ngờ, cho rằng đó chỉ là những hành vi giả tạo, để che dấu cái thực chất yếu đuối bất mãn, bi quan bất lực. Nhưng sau này, qua những lần đi chơi với ông, tôi mới thấy rằng đó là đặc tính cố hữu, phát xuất từ tâm hồn. Ông đã từng nói với tôi: “tôi biết con đường tôi đi, thái độ tôi chọn sẽ đưa đến cho tôi rất nhiều kẻ thù, rất nhiều điều tiếng, nhưng tôi nghĩ; thà có nhiều kẻ thù còn hơn tự dối gạt lương tâm mình. Nếu cảm thấy rằng không thể chịu nổi búa rìu dư luận, thì tốt nhất là đừng cầm bút, đừng làm văn nghệ, hãy bỏ đi buôn, làm công chức để được nhiều người yêu thích. Riêng tôi khi nào cảm thấy không còn đủ cam đảm để sống thực với cảm nghĩ, với ý thức của tôi, tôi sẽ thôi làm văn nghệ”.

Cũng vì thế, cho nên bước khởi đầu, ông đã gặp rất nhiều gian nan nhục nhã. Không những nhục nhã, đau xót về vật chất mà còn ở cả lãnh vực tinh thần. Chung quanh ông, những người không ưa, những người ghen ghét đã không tiếc lời dè bỉu, họ bịa đặt thêu dệt nhiều giai thoại, với mục đích làm sao loại trừ ông khỏi hàng ngũ những người cầm bút. Dĩ nhiên không phải đó là thái độ của hết thảy những người cầm bút tại đây, chỉ có những tên hoạt đầu, những tên bồi bút, bán rẻ lương tâm, quên hẳn thiên chức cầm bút của mình, mới hằn học, tỵ hiềm như vậy mà thôi. Thêm nữa, ông còn bị một số bạn bè bội phản một cách đê hèn, trắng trợn.
Nhưng, càng nhục nhã, càng khốn khổ bao nhiêu ông càng hăng hái, bất chấp tất cả, vượt lên trên để sáng tác nhiều hơn nữa, càng thẳng thắn phê bình, vạch mặt chỉ tên, phanh phui mọi bỉ ổi thối tha, điếm nhục của bọn đánh đĩ tâm hồn, bán rẻ lương tâm.

Dưới ngòi bút vũ bão, ngang bướng của Thế Phong, bao nhiêu tệ đoan, bao nhiêu bẩn thỉu bất công của xã hội, của chế độ, của cả những người đang được xung tụng là thần tượng v.v… đều bị phơi trần trên giấy trắng mực đen. Cảm kích trước thái độ cương trực của ông, một số anh em nghệ sĩ khác đã quy tụ lại, hợp tác với ông thành lập nhóm Đại Nam Văn Hiến, như Uyên Thao (tác giả bộ Lược khảo về thơ (3 cuốn), Nhị Thu (tác giả “mây Hà Nội” Bùi Khải Nguyên … (tác giả “Thiết Tha”, cũng chỉ vì nhất định in tập thơ này mà nhà thơ họ Bùi Nguyên trung úy, đang tùng sự tại ủy hội quốc tế đã bị thuyên chuyển lên cao nguyên, sau khi công an mời ra cảnh sát cuộc lấy khẩu cung).

Mặc dù dưới chế mật vụ như chế độ Ngô Đình Diệm, ông vẫn cố gắng lần lượt cho in bằng RONÉO (không giấy phép) những tác phẩm nội dung lên án chế độ độc tài áp bức, bất công, thối nát của chính quyền. Hành động gan liều này đã làm điên đầu, gây lo sợ cho những vị giám đốc thông tin thời đó như Trần Văn Thọ, Phan Văn Tạo là những vị giám đốc, tổng lý bộ thông tin. Các ông sợ nếu cứ để Thế Phong tiếp tục in tác phẩm chửi chế độ “ấm no hạnh phúc” của các ông, có ngày các ông sẽ mất ghế, sẽ bể nồi cơm không chừng. Hơn nữa, rất có thể các ông sẽ bị đi ở “tì” vì tội để cho một tên văn nghệ “làm loạn”. Các vị này, ngay cả ông bộ trưởng Hiếu cũng tìm đủ mọi cách khuyên dụ Thế Phong hãy bỏ lối in đó đi, nếu cần in tác phẩm, cứ đưa cho ông ta, ông ta sẽ bảo nhà in Quốc Gia in cho! Nhưng Thế Phong có dại gì nghe theo những lời dụ dỗ ngon ngọt đó! Thấy chiến thuật mềm dẻo không có kết quả, các vị quay ra dùng quyền hành đe dọa, lấy áp lực hầu mong ông sẽ hoảng sợ mà bỏ dở công việc, nhưng Thế phong vẫn thản nhiên, lặng lẽ, âm thầm làm công việc của mình. Tôi xin trích dẫn một thí dụ để độc giả thấy rõ thêm về trường hợp in RONÉO không giấy phép. Tháng 4 năm 59, ông cho in cuốn “Nhà văn tiền chiến”, thấy sách được tiếp đón nồng nhiệt (mặc dầu in RONÉO), ông liền cho in cuốn tự truyện “nửa đường đi xuống”, nội dung lên án gắt gao chế độ độc tài đầy thối nát nhơ bẩn, biết chắc rằng nếu có xin phép cũng chẳng ai chịu cấp cho, nên ông cứ cho in và lấy giấy phép của cuốn “hình ảnh một cái đám cưới” số 300 TXB thời nhà văn phóng sự Trọng Lang phụ trách kiểm duyệt. Thêm nữa, khi cho xuất bản cuốn “nếu anh có em làm vợ” (nói về tình yêu của ông với CMN không những ông không xin phép mà cũng không ghi số kiểm duyệt ma nữa.

Nhờ tựa đề hấp dẫn nên sách đã bán khá chạy và dĩ nhiên các tiệm sách vẫn nhận bày bán. Như bị tát vào mặt, bộ thông tin không còn cách nào khác là mời ông đến bộ để đối chấp và nếu ông tới, có thể sẽ bị áp tải đi luôn.

Nhưng Thế Phong nhất định không đến, mặc dù công văn gửi đi ba lần, đều đề Thượng Khẩn (chúng tôi xin nói thêm để độc giả rõ: thời đó, muốn được cấp một tấm giấy phép in sách phải trải qua đủ ba cơ quan: Văn hóa vụ, hội đồng kiểm duyệt, nha CTTL).

Dưới đây, tôi xin chép lại nguyên văn một trong hai công văn mà ông Phan Văn Tạo tổng giám đốc thông tin xưa và cũng là tác giả tập truyện ngắn “cái bong bóng lợn”.

Saigon, ngày 25 tháng 7 năm 1963
Số 4044 CDV/TT/HĐKD
Tổng giám đốc thông tin


Kính gởi
Ông giám đốc Đại nam văn hiến xuất bản cục Phú nhuận

Thưa ông giám đốc,
Quý ông đã có nhã ý gởi tặng tôi bản dịch cuốn LA CRAVACHE của GHEORGHIU do Đại Nam văn hiến phát hành, tôi xin kính gửi lời chân thành cảm tạ. Song le, trên phương diện kiểm duyệt, nha tôi nhận thấy Đại nam văn hiến xuất bản cục đã hiển nhiên vi phạm luật lệ hiện hành vì đã không nạp duyệt tác phẩm trước khi xuất bản.

Ông tổng giám đốc cũng đã thừa rõ những phiền phức có thể xảy ra với hành vi phạm pháp trên đây, nhất là ngay khi nhận được lá thư gửi “Anh chị em làm nghệ thuật và độc giả” nha tôi đã tùng tại công văn số 3491/TT/HĐKD ngày 2 tháng này lưu ý và yêu cầu ông giám đốc gửi duyệt những tác phẩm mà ĐN VH XBC định cho ra mắt độc giả? Vì lẽ đó và mặc dù tôi rất quý trọng các văn phẩm, tôi không thể nào với tư cách tổng giám đốc thông tin nhận gởi tặng một bản dịch không kiểm duyệt dù là bản này in RONÉO. Tôi xin phép được gửi lại quý cục cuốn sách trên.

Tôi cũng xin dành lại quyền hành động theo các điều 6 và 7 nghị định số 275-PTT/TTK 5-4-1954 ấn định thể thức kiểm duyệt các ấn loát phẩm xuất bản trong nước.
Vài lời thành thực mong ông giám đốc thông cảm và xin trân trọng kính chào ông giám đốc.
Kính thư Phan Văn Tạo
(chữ ký và con dấu) (1)
(1) Trích trong TP Nhà văn Tác phẩm cuộc đời, trang 99 – ĐNVHXB.
Đọc kỹ công văn trên, hẳn độc giả đã thấy rõ cái nguy hiểm, cũng như sự liều lĩnh bất cần của Thế Phong nó nói lên được phần nào thực chất tâm hồn ông.

Tới đây tôi xin nói về nguyên nhân khơi nguồn loại sách RONÉO mà Thế Phong là người đầu tiên thực hiện (sau này cũng có rất nhiều người bắt chước, mặc dù trước kia họ đã từng lên tiếng chỉ trích, chê bai như thiếu tá thi sĩ Hoàng Trinh với tập “Tiếng hát TỰ DO” rồi Minh Đức Hoài Trinh… gần đây có Nguyễn Văn Trung, giáo sư, với tập báo Hành Trình).

Hồi đó, Uyên Thao, người bạn thân nhất của Thế Phong, nói với ông rằng: “tình trạng bế tác này, nếu không tìm ra một lối thoát thích hợp với hoàn cảnh (chính trị cũng như kinh tế, tài chính), bản thảo của mình chắc sẽ thất lạc mất. Hay là mình cho quay RONÉO”. Như bắt được vàng, Thế Phong thực hiện ngay. Hôm sau, Uyên Thao đi mượn ở đâu về được một cái máy chữ cũ tới độ khó có thể khảo trợ nổi. Nhưng ông cũng đem đi sửa chữa qua loa, rồi không nói không rằng gì cả, xoay trần ra đánh máy suốt ngày tại nhà mẹ nuôi của Uyên Thao. Lúc đó khoảng đầu năm 1959, với tên chọn đầu tiên là “loại sách đại nam văn hiến”. Dần dà, ông được một số anh em cùng chí hướng góp sức mới đổi thành ĐNVHXBC, danh hiệu trên còn được dùng tới bây giờ và tôi chắc cũng không còn xa lạ gì với bạn đọc.

Tuy phải chịu đựng khốn khó trăm bề, nhưng đền bù lại ông được giới thanh niên ưa thích. Với ông, đây là một khích lệ lớn lao. Ông kể truyện, có một sinh viên văn khoa đã chặn ông lại ở giữa phố Bonard hỏi ông: “tôi nghe nói ông phải nhịn đói thường xuyên, vậy bây giờ ông đã ăn cơm chưa? Nếu chưa, tôi có thể giúp ông một bữa được”. Những điều trên, đã cho tôi thấy rõ nhận xét sai lầm của tôi về hành vi, tư cách của Thế Phong. Nó không phải là những gì giả tạo, bày đặt cố tình. Nó chính là khuôn mặt tâm hồn ông, không son vẽ, không hóa trang, ngụy tạo. Ở ông, trong cuộc sống cũng như trong tác phẩm, có sự đồng thể? Trường hợp Thế Phong có người cho rằng rất gần gũi với trường hợp một Cao Chu Thần… (theo tôi thì sự thực không hẳn thế, ở một Cao Bá Quát là một tâm hồn muốn vươn thoát, bay trên cuộc đời và không bao giờ muốn nhìn xuống, muốn quay về nhân gian. Cái khinh mạn của cuồng sĩ tài danh họ Cao là cái ngạo nghễ ngất ngưởng của một người biết mình có tài mà không được đời trọng dụng, không được đời biết đến dù đã từng bon chen trên con đường quan hoạn, và số mệnh vẫn là cái số mệnh bi đát. Cho nên họ Cao sinh ra yếm thế, mượn mộng, mượn rượu để quên, để chửi cuộc đời, chửi xã hội tham quan ô lại). Sự so sánh này quá đáng - tuy nhiên, nó cũng nói lên một phần nào khía cạnh nổi loạn, đập phá, tiềm ẩn trong tâm thức ông (tôi sẽ nói rõ hơn trong phần nhận định tác phẩm).

Với những ghi nhận trên, tôi thấy đã tạm đủ độc giả có khuôn mặt bằng những nét phác, nhưng là những nét chính của khuôn mặt đời-Thế Phong.

Để kết thúc, phần này tôi xin trích lại một đoạn văn trong một bài đả kích Thế Phong, đăng trên Văn Hữu (1) “hắn chụp cả ảnh, thuê sao ra để biếu không sợ xẩy ra chuyện gì như bị đưa vào trại tế bần cải hóa chẳng hạn, thì người đời sẽ khỏi quên mất hình ảnh của một thiên tài”.

(Văn Hữu số 6 năm 1963)
(1) Văn Hữu là tạp chí của cơ quan Văn hóa vụ xưa, bài của Hoàng Trọng Miên, tác giả cuốn VĂN HÓA TOÀN THƯ, đã bị một số anh em văn nghệ lật tẩy là ăn cắp nguyên văn và từng đoạn trong Lược khảo về THẦN THOẠI của Nguyễn Đồng Chi xuất bản tại Hà Nội. Trong số những người đả kích có cả Thế Phong với bút hiệu Đường Bá Bổn.


THƠ THẾ PHONG :

“Trong giới văn học và quần chúng độc giả hôm nay thường xem Thế Phong như một nhà phê bình văn học, một tiểu thuyết gia có khuynh hướng xã hội cấp tiến. Sự thực Thế Phong là một nhà thơ. Thơ của ông mới đủ tư cách và bảo đảm cho ông một ngôi vị xứng đáng trong văn đàn dân tộc”
(Trích trong XI nhà thơ tự do của Cao Đan Hổ trang 26)

Tôi đồng ý với tác giả họ Cao, khi ông chủ trương thẩm xét tiếng thơ Thế Phong để định vị, xếp chiếu hay chụp vẽ chân dung linh hồn nhà thơ này. Nhưng với lập luận viện dẫn trên, tôi thấy thiếu phần xác đáng. Sự thực, khi đại chúng coi thế Phong như một phê bình gia vì suốt sản nghiệp tinh thần tác giả này, người ta thấy hầu hết đều nghiêng về loại phê bình nhận định… Hơn nữa, tác phẩm được nhiều người biết tới và cũng là tác phẩm đầu tay của nhà xuất bản ĐNVH là cuốn LSVHVN, một bộ sách gồm 4 cuốn mang giá trị một công trình biên khảo công phu. Còn nói rằng “coi thế Phong như một tiểu thuyết gia” thì hầu như không ai lầm tưởng như vậy cả, có chăng cũng chỉ là một thiểu số quá ít oi không đáng kể. Nếu chỉ cần có một số truyện ngắn mà trở thành tiểu thuyết gia thì quả là quá dễ dãi, giản dị. Như vậy chắc Việt Nam là một nước có nhiều tiểu thuyết gia nhất thế giới!

Ở đây tôi đi vào thế giới tâm hồn Thế Phong cũng bằng tiếng thơ của ông, Nhưng không phải vì muốn để độc giả nhìn thấy khía cạnh thi sĩ của Thế Phong hay vì chỉ có “thơ của ông mới đủ tư cách và bảo đảm cho ông một ngôi vị xứng đáng trong văn đàn dân tộc”. Nhưng tôi nghĩ: thơ là tiếng nói trung thực, tha thiết nhất của một tâm hồn, được kết tinh bởi những cảm xúc, những dằn vặt, những suy nghiệm của con người trước cuộc đời. Thơ là một cái gì vượt cao trên mọi bày đặt giả tạo của một bối cảnh, một kỹ thuật bao gồm tình tiết, màn, cảnh… Vì là tiếng nói của linh hồn nên âm hưởng vang vọng đi thẳng vào lòng người, vào tình người, khi tiếng thơ đạt tới mức độ truyền cảm, rung động của nó.

Cho nên, nếu không nhìn về khía cạnh lớn nhất thời, ảnh hưởng trực tiếp, hiện ngay, mà chỉ muốn nhận diện vóc dáng đích thực khuôn-mặt-linh-hồn ẩn chìm của một tác giả, tôi nghĩ không gì bằng đến với họ, đi vào vũ trụ tâm hồn họ bằng tiếng nói linh hồn tức bằng cửa ngõ thi ca.
Hơn nữa, nếu phân loại tác phẩm Thế Phong, người ta thấy số lượng thi phẩm cũng chiếm một phần đáng kể.

Khởi đầu là “Đàn bà với tổ quốc”, qua tới “Nếu anh có em làm vợ”, rồi “Vương miệng Mai A”, “Sai biệt”, “Cho thuê bản thân”, “Trước mắt nhìn thi sĩ”. Và gần đây “Thơ làm lớn dậy con người”. Điều đó chứng tỏ nồng độ đam mê nơi Thế Phong vẫn nghiêng lệch về thi ca - vẫn là thơ, hay thơ vẫn là nguồn suối cuộn chảy, mãnh liệt, sôi réo trong tiềm thức Thế Phong.
Những người đọc báo ít biết thơ Thế Phong, phần vì ông ít đăng báo, phần vì tiếng thơ thiếu quyến rũ, lôi cuốn của âm điệu, ngôn từ trong thơ ông lại không vụ ở sự chải chuốt hào nhoáng, êm tai mà chỉ chuyên chú ý tới ý tưởng, tới những suy tư, phơi bầy, những khao khát muốn thể hiện, những dằn vặt, ưu tư muốn giải tỏ mà thôi. Chính sự khó khăn, khúc mắc này, đã khiến đám đông xa lánh và quay lưng lại trước những tiếng gào thét, những vấn đề thiết yếu của giá trị làm người. Tôi cam chắc, với một độc giả ở mức trung bình, hoặc quen coi thơ để mong tìm thấy một phần nào kỷ niệm ái tình, một phần nào những cảm xúc yêu đương mà họ đã trải qua hoặc đang khao khát thèm nếm, sẽ vô cùng thất vọng khi đọc thơ Thế Phong. Họ không thể hiểu nổi cũng như không thể nào cảm nổi tác giả với những câu thơ đại loại như:

chiếc xe đạp dưỡng bệnh về nằm yên một chỗ
để cùng chủ nó nghe cô gái 18 tuổi phê bình về thơ

hay:
bệnh lý hàng ngày nhiều hơn phép lạ
hiện tượng nào đưa đến cho tiếng thở dài chau mày suy tưởng

Dù cho muốn nói đến cái thân phận bi đát, cái sự ô uế, phân rác của xã hội đang khỏa lấp mặt nước trong suốt của cái tâm thánh thiện. Với lối diễn tả mà nhiều người cho là cầu kỳ, lập dị đó, cũng ngăn trở, cản chắn không ít những tâm hồn nhiệt thành muốn bước lại gần, soi dáng trong nguồn hứng thi ca của nhà thơ này, cũng ngại ngần, định xét lại thái độ.
Chính Thế Phong cũng nhìn nhận điều đó, nhưng ông quan niệm, không còn cách diễn tả nào khác hơn trước một hiện tại bế tắc, đầy rẫy bất bình, nhàm chán tới độ muốn tự tử, muốn nôn mửa, khạc nhổ vào cuộc đời điên loạn này. Giữa những bộ mặt son phấn, trơ trẽn, thi nhau sắm tuồng, đóng kịch không những với đám đông, mà còn đóng kịch phản bội chính lương tri của mình nữa. Những khuôn mặt lợm lì chạy bám theo thị hiếu, thấp kém - thay vì hướng dẫn, nâng cao trình độ thưởng ngoạn của đại chúng - của những tên con buôn văn nghệ, những tên hoạt đầu văn hóa. Nên ông cố gắng giữ nguyên bản chất cũng như cố thể hiện ý thức của người làm nghệ thuật là vạch một hướng đi, khai thông một lộ trình vào tương lai, bằng tất cả lòng thành khẩn, cuồng tin nơi việc làm.

nên tôi hiểu thơ văn triết lý của những thi sĩ làm
lớn dậy ngày mai chủ nghĩa đi lên của con người
đàn bà con gái đều ghét bỏ

Khi phẩm bình về tiếng thơ Thế Phong, có đôi người cho rằng ông là thi sĩ thuộc phái hiện thực, hoặc xã hội… Với tôi, đó là một việc làm hết sức gượng ép, một sự bắt chước thiếu cân nhắc, thận trọng. Bởi xã hội Việt Nam nói riêng và Đông phương nói chung, người ta phải nhìn nhận một đặc tính cố hữu, một truyền thống bất di dịch, đó là tinh thần tổng hợp, không phân rẽ, không hệ thống điều lệ gò ép. Thứ nữa, cụ thể hơn, lịch sử văn nghệ Việt Nam chưa ghi nhận một khuôn phép, một hệ thống phân định rõ rệt nào của những người làm văn nghệ để ta có thể căn cứ vào đó mà khẳng định rằng nhà thơ này thuộc phái này, nhà văn kia thuộc phái khác. Tôi cho rằng đó cũng là một trong những yếu tố tạo cho bộ mặt văn chương đông phương thêm phong phú, thanh sắc. Ngày xưa chỉ có một Nguyễn Xuân Sanh tính áp dụng một cách máy móc, rập khuôn theo thi phái Tượng Trưng của Pháp, nhưng đã thất bại đáng thương hại * cuối cùng, cũng chẳng đem lại gì cho vườn hoa văn nghệ chúng ta. Sau nữa, ta cũng nên nhắc tới một Nguyễn Vỹ, với Tao Đàn Bạch Nga, nhưng nó chẳng ra phái gì cả, nó chỉ là một trò hề nhố nhăng, quy tụ một số đàn em ngâm vịnh, tâng bấc, công kênh lẫn nhau, cũng như để vị thủ lãnh dễ bề thỏa mãn bản tính háo danh, hảo ngọt mà thôi.

*Thí dụ muốn diễn tả nước mắt trên mi một người con gái, phái này dùng 2 tiếng mi sương
Ở đây, tôi không muốn ép uổng tiếng thơ dũng mãnh, bạo cuồng của Thế Phong vào một khuôn khổ hữu hạn. Vì không một khoảng trời nhỏ hẹp nào có thể dung chấp nổi tiếng thơ giàn trải đủ mọi chiều hướng của nhà thơ này. Chính tâm hồn ông cũng đã là cả một vũ trụ náo hoạt, gồm chứa đủ mọi suy tư, mọi khía cạnh nghịch phản, nhận đón đủ mọi triều sóng tư tưởng cấp tiến âu tây, cộng chung với một vốn liếng to tát, gồm những kinh nghiệm bản thân mua bằng nước mắt, bằng trên ba chục năm chinh chiến, bằng tủi nhục, ê chề, khốn khó, của một thân xác nhược tiểu điêu tàn.

“Tôi lớn dậy mang đầy sương mù Việt Bắc
quê hương tôi cây đứng thẳng nhiều hơn chông rừng
người tình đầu đã bỏ tôi vào điểm giờ cách mạng 1945
núi rừng ơi nhớ mãi cũng bằng không
những cái nấp mô gồ ghề, hình ảnh cuộc đời không mềm như thạch trắng”.

Ở cao độ đam mê, tiếng nói linh hồn thi nhân như bước chân cô độc dã thú đi giữa vùng biển cát. Thi nhân kiên nhẫn, âm thầm trong niềm hiu quạnh băng giá ngạo mạn, tìm cho mình một ý nghĩa giữa cuộc sống phồn tạp, chênh vênh của tình người, của cuộc đời, của hiện tại với một ý thức khai thoát, phát huy một nhân bản mới không phải là thứ nhân bản ngụy tạo, mặc khoác làm duyên. Cho nên trước bao nhiêu bội phản, thi nhân vẫn tìm về tình người và tin nơi tình người như một tín đồ tìm về tôn giáo ngưỡng vọng:

Còn gì nữa đâu em?
Thành phố cũ đôi mắt mới nhìn tôi vẫn khác lạ với mọi người trong thành phố quen
….
Tình cảm vô cùng cần thiết như nhu cầu cơm áo
Không có em rồi anh mới thấy đời buồn nôn

Mỗi thi nhân, ngoài cái thể giới phức biệt của tâm hồn hiếu chân, hiếu thiện hay hiếu mỹ, họ thường phải gánh vác ít nhiều mặc cảm, cái mặc cảm nhiều khi vô cùng phi lý, không giải thích nổi! Thế Phong cũng không thoát khỏi định lệ khắc nghiệt đó, ngoài cái dĩ vãng ấu thơ vướng vít sương mù Việt Bắc, cùng thảm trạng gia đình rách nát, nhà thơ này còn bị cái mặc cảm bị phản bội, bị ruồng rẫy lãng quên không những của người thân mà còn của cả bạn hữu, tôi không muốn nói tới những người từng chia xẻ với ông một điếu thuốc, một nắm xôi, một vài đồng bạc, khiến ông nhiều khi trở nên hoài nghi mất niềm tin trước tất cả mọi giá trị tinh thần, ông cũng trở nên ngờ vực chính sự có mặt và giá trị của con người mình:

Mỗi lần tôi muốn làm ngơ rút đôi mắt sáng phản 
ứng tự động rằng mình là một thằng hèn nhát 
không dám đứng trước gương nhìn khuôn mặt đáng yêu
ở đâu và chỗ nào sự tự khinh mình cũng trỗi dậy
nên tôi lại dán ngươi tròn nhìn đời thẳng tắp
cả đống rác cả ruồi muỗi từng đàn theo ra ngoại ô

Từ mặc cảm dập vùi, phụ rẫy đó, thi nhân lao thân vào cuộc đời với nồng độ đam mê cùng tột, ông tìm đến tình người, mặc dù biết rằng sự tự dâng hiến của mình sẽ chỉ được đền bù bằng những tẻ lạnh, những vùi dập xua đuổi. Nhưng không còn cách nào khác hơn nữa, thà đón nhận những mũi dao đâm chém xuống triền tâm hồn tuyệt vọng để còn thấy mình, còn thấy có một ràng buộc, có một sự nhìn vào, ngó tới để tự tạo một cõi trú tạm thời khoảng khắc giữa cái quen thuộc mòn nhẵn không còn một ghi nhận sinh khí nào:

vẫn là khách quen chào hỏi nhau bằng mắt nhìn
vẫn bồi bàn nhẵn mặt thuộc lòng thức gì khách uống
nhạc thính phòng bao vây tâm hồn cô quạnh
nhìn quanh tôi bạn bè cũ bỏ thành phố xa rồi
trời mưa thu sương mù nào lũng bản xa xăm
tôi đứng dậy góp hình hài mình làm tĩnh vật

“góp hình hài mình làm tĩnh vật” nỗi cô đơn khủng khiếp tưởng chừng như đã kết thành khối, làm ta liên tưởng tới hình ảnh một hòn vọng phu, một thiếu phụ nằm sương mà chinh phu ở đây là tình người, là một khung cảnh đời sống hạnh phúc no tròn giữa những người mang thân xác người và tâm hồn người. Nhưng ao ước bao giờ cũng chỉ là ao ước và khát khao chỉ là khao khát vô vọng mà thôi. Người ta vẫn không ngớt nghe thấy những tiếng than dài, những réo gọi khản giọng trong tuyệt vọng, trong tiêu sơ thảm đạm của thi nhân. Đau đớn và chua xót hơn nữa, khi nhà thơ phải đối diện với ý thức sáng suốt về sự bất lực trước một định mệnh khe khắt, một thân kiếp nhược tiểu tối tăm bên những thương tích quê hương nghèo khó, rỉ máu tương tranh. Thi nhân không dừng được xót xa ngậm ngùi, ông liên tiếp gióng lên những khúc bi ca nhược tiểu trường thiên trên sân khấu hài kịch xã hội đổ nát. Ngày xưa, chúng ta đã hơn một lần xúc cảm trườc tiếng than nức nở âm thầm vang vọng của cả một thế hệ khốn đốn mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã ghi nhận: “lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Thế hệ lạc lõng đó đã lùi dần vào quá khứ cùng những đau thương của nó. Sân khấu nhược tiểu Việt nam nhường lại cho thế hệ tiếp liên kế tục. Họ sống, họ múa may, đi đứng trong một cảnh trạng mới, giai đoạn mới với những vấn đề mới được đặt ra cho họ, nhưng vẫn cùng chung một không gian bi thương tủi nhục, nhục hờn. Là một trong những nạn nhân bất đắc dĩ của thế hệ hiện đại, của lửa máu hôm nay, thi nhân cũng phải thắc mắc, băn khoăn tự hỏi:

tôi đã nhìn thấy gì ngoài những dây thép vòng xoáy móc máu phun
tôi đã nhìn thấy gì người thị thành ra phố buồn giới nghiêm
tôi đã nhìn thấy gì người nhược tiểu dân tộc đều là công an
tôi đã nhìn thấy gì áo mầu ka ki trận nhiều hơn thác lũ
ở ngã tư thành phố hôm nay áo đen nhiều hơn áo màu sặc sỡ

Giữa cảnh huống bi đát, bi đát từ thân phận tới quê hương, tới tổ quốc, nhà thơ đã rơi vào mặc thức lưu đầy, lìa xa sinh hoạt bình thường như muốn trốn chạy sự thật, trốn chạy những dằn vặt, những âu lo tủi thẹn như đa số những nhà thơ khác. Nhưng ở Thế Phong, con đường giải thoát lại ngược hẳn. Đó là thái độ phản kháng, phá phách. Tính chất hiện sinh sôi động rạo rực trong tâm hồn thi nhân. Ở Thế Phong người ta không tìm thấy cái tính chất hiện sinh làm dáng, vay mượn ngụy tạo. Nếu dĩ vãng đủ để ta định giá cho hiện tại thì cuộc sống của ông thừa đủ để bảo chứng cho tiếng thơ ông. Một tiếng thơ chất chứa đầy khắc khoải ưu tư. Cũng bởi trung thành với sự thực, dù sự thực phũ phàng, nhơ bẩn, cũng vì không muốn lừa đảo lương tri, phấn son thêu dệt cho tấn kịch xã hội nát rữa, tiếng thơ Thế Phong nhiều khi trở nên sỗ sàng sống sượng, trần truồng:

Mày có biết mày tự do vào buồng mẹ tao bắt nạt 
tình mẫu thân được san sẻ qua cái vòng tay của mày 
sự khôn khéo làm gì có để cho mày lên mặt mô phạm

những câu thơ đại loại,người ta đã bắt gặp không ít, nhất là trong tập “thơ làm lớn dậy con người” Tôi nghĩ, những nhà “đạo đức vỏ” tức bọn giả đạo đức, nếu đọc đoạn thơ trên, chắc không phải nhăn mặt chau mày, sẽ không ngớt lời lên án tác giả: kẻ phá hoại đạo đức luân thường bằng những lời lẽ thô tục… Nhưng sự thực bao giờ cũng là sự thực. Xã hội ta càng ngày càng đầy rẫy những thảm trạng xiêu đổ. Trước những tấn hài kịch đầy nước mắt tiếp diễn không ngừng quanh ông, lòng tin nơi một đấng thiêng liêng, cứu rỗi cuộc sống đọa đầy này không hề thấy dù phảng phất trong vũ trụ tâm hồn nhà thơ:

vì xã hội nay nhiều ê chề nhục nhã
cho dẫu có lửa và nước
nhiều nhiều hơn hết thảy gột rửa biến tan
khởi thủy hình thành thiên nhiên
cái gì gọi là tạo hóa

hoặc:
ở đâu có ruồi là có thượng đế,
ở đâu có thượng đế là thanh niên có lứa đôi

Bị ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của NIETZCHE không những ông chỉ chấp nhận sự khai tử từ thượng đế của NIETZCHE, ông còn đem thượng đế ra mỉa mai, riễu cợt, ông ví thượng đế với đàn bà (câu trích dẫn trên) mà đàn bà thời đại này dưới mắt ông chỉ là:

Một chiếc mô tô huê kỳ đáng giá bẩy chục ngàn
xe hạc lây lao vút trên đường không biết nói
xe đàn bà hai xy lanh biết nói chỉ để lao vút lên giường
hai thứ này được trao đổi như truyện thần tiên

Ý nghĩ này ở thi nhân không có nghĩa tuyệt đối. Vì trong thơ ông, người ta vẫn tìm gặp được một vài khuôn dáng, một vài chân dung đông phương thuần hậu, khả ái, thỉnh thoảng lóe sáng trong tầm sâu vùng yên tĩnh tâm hồn. Tôi muốn nói ở nhà thơ đập phá sỗ sàng này, vẫn còn có một niềm tin tiềm ẩn thu vén trong một vài khuôn trang VN khả kính:

tôi đem theo hình ảnh mẹ tôi xưa
tóc đuôi gà khuôn trang đầy đặn, da trắng bóng mầu trong suốt sương thu
miệng nam mô đi về phía quan thánh yên bái từ ba mươi năm ngoài để có tôi là con cầu tự, tôi hành hương với niềm nhớ người…

hoặc:

một bàn tay ngọc ngà cho anh buồn vui theo nét chữ
một lần nhìn âu yếm đủ cho anh tin cẩn cuộc đời
dù phải ghé vai lãnh đủ đời nằm gai nếm mật
thì ý nghĩ còn em có mặt làm anh vui lòng

Theo tôi, ở nhà thơ này, điểm nổi bật nhất là sắc diện khật khưỡng đi từ cô đơn đến nổi loạn - từ đời sống đến thi ca - từ thi ca đến khát vọng cách mạng xã hội - từ cách mạng xã hội tới luận lý nhân sinh - ngay với những giòng thơ tình cảm yêu đương, người ta cùng soi thấy hay trực cảm một hệ thống luận lý ẩn lồng:

nội tâm anh náo động từ khi có em ở bên
sự quấy nghịch làm đời sống hàng ngày anh thôi buồn
để thấy mình trẻ lại con trai 18
soi gương trong đôi mắt em đen giòng nước biếc
hoặc:
em ơi tình duyên xưa bạc bẽo cũng hơn nhiều
chúng ta bỏ quá khứ vì chúng ta làm người tiến bộ

Hơn nữa ta có thể khẳng định: với Thế Phong, thơ là sản phẩm của ý thức bị dằn vặt dồn nén cao độ - là sức đối kháng quyết liệt trước xã hội ung nhọt, trước viễn tưởng suy sụp, bật gốc của những giá trị tinh thần của nề nếp truyền thống dân tộc, trước cường lực sung mãn của văn minh vật chất… ông ôm hoài bão làm mới xã hội, làm lớn dậy tâm hồn, phục vụ cho những giá trị tinh thần, tình cảm thiêng liêng đang bị dày xéo, xô đạp dưới những bước chân dập dồn, cuốn trôi của một hỗn trạng vong bản nô lệ.

Khát vọng cao xa đó, đã đưa tiếng thơ Thế Phong chạm kể triết lý - thế giới thi ca của ông không còn là thế giới của vần điệu âm vang ngọt ngào quyến rũ của hình ảnh đẹp, của tình yêu huy hoàng như một Xuân Diệu hay gãy đổ bi thiết như một Nguyễn Bính xưa - mà mỗi bài thơ của ông là một bản cáo trạng, một tiểu luận về xã hội luận lý nên phần lớn thường khó hiểu, mặc dù ông đã vận dụng tới những ngôn ngữ dung dị hầu làm sáng tư tưởng muốn diễn đạt, nhưng đôi khi cũng không tránh khỏi sự tăm tối bí hiểm, gây cho lớp độc giả trung bình muốn tìm vào vũ trụ tâm hồn nhà thơ gặp nhiều trở ngại, nhiều khó khăn, chán nản:

ong bầu về đây từ sáng sớm đầy vòi
đêm qua chú thắp đèn sáng chú học bài trong màn
chú nhăn mặt trước phút giây ong bầu gẫy cánh
để nhăn nhó khi ngón tay bị thương, con ong đồng bạn trả thù
chú bảo nó sẽ chết vì nọc độc truyền sang qua máu
nên chú phải băn khoăn tại sao nó đốt chú

Từ đây, tôi nghĩ: nếu ai kia, nói rằng thơ Thế Phong là thơ của người lớn, của những ai băn khoăn muốn tìm một ý nghĩa cho cuộc dời bần cùng, hữu hạn này không phải là lời nói vội.

xã hội nhược tiểu bi thảm chúng tôi
chức vụ gì cao hơn đỉnh chóp
tu sĩ còn là mật thám
thi nhân còn sản xuất phiếu thơ đặt hàng để
có xe hơi chạy nhanh hơn người đi bộ

*

Như cánh chim lần đầu tiên tung chiếc thân vào vùng trời cao rộng, ôm niềm khát vọng tràn đầy trong tâm hồn trinh nguyên bằng đôi cánh tự tin và lòng thành khẩn, thiết tha tin vào một thiên đường nhân bản, Thế phong đã lầm, đã thất vọng, chua cay ngay từ khởi điểm - cánh chim đã nhiều lần rướm máu trước trăm muôn làn tên cung thủ vút tới. Nhưng thành khẩnvới mình, thiết tha với đời, đắm đuối mê say trong cái bập bềnh chới với của những ước vọng thầm kín giữa một không gian tàn rữa, một tổ quốc chênh vênh khắc khoải, thi nhân dám nói lên thực trạng và kêu gọi ý thức trỗi dậy vươn lớn của những kẻ còn quay lưng, ngoảnh mặt, của những kẻ đã tách rời và bội phản quê hương, bội phản nòi giống
ai từ bỏ đời sống căm hờn thiêu thân ngoài kia đó
giòng chữ nổi loạn giòng chữ giải độc
giòng chữ nào mang chính nghĩa
diễn biến sự thật thì không biết không nói như thằng câm
mà lòng tràn đầy hy vọng âm thầm
ngày mai tương lai tổ quốc tương lai đời sống cá nhân
Dù muốn dù không, khuôn mặt linh hồn Thế Phong,soi qua thi ca của ông, cũng là khuôn dáng độc đáo không ẩn lẫn, nhạt mờ với tất cả những gì tạo nên khoảng trời Thế Phong, và chỉ của riêng Thế Phong mà thôi. 








Thế Phong-" nhà văn bất mãn thường trực "




Le Moi est haissable 
(Cái Tôi đáng ghét) 
B. Pascal (1632-1662) 


… Thuở nhỏ, Thế Phong rất oán giận bố vì hai chuyện, và cho rằng bố không thương mình bằng mẹ. Một lần bố sai đi mua thuốc phiện, đường xa, phải cưỡi ngựa băng qua dòng suối lớn đang mùa nước lũ, bị nước cuốn mất ngựa suýt chết. Khi về, bố chỉ hỏi thuốc phiện mà không hỏi đến sự nguy hiểm của mình. Một lần, muốn cho con học, ông đã nhốt con trên sàn gác, sai người cất thang, dưới chất đầy cành gai, khi nào học thuộc bài mới được xuống…

Trong khuôn khổ sinh hoạt văn nghệ miền Nam, Thế Phong nghênh ngang bước vào, mang theo giông gió làm đổ vỡ bao nhiêu thần tượng cùng với những hằn học, bất mãn trước xã hội. 
Không giống các văn nhân khác, dùng trí năng soi tỏ con người đối chiếu với sự vật, từ đó, phóng hồn vào khung trời sáng tạo với đầy đủ quyền hành do nghệ thuật trao phó để hình thành tác phẩm. Thế Phong tìm riêng cho mình một tư thế sáng tạo bằng cách mang bản thân ra làm vật thí nghiệm và dùng người thân, bạn hữu, người tình, cuộc sống như những chất liệu để xây dựng Sơn Nam văn chương. Điều này làm buồn lòng nhiều người. Thế Phong đã bị dư luận anh em oán giận, người tình than trách và sự hiện diện của tác phẩm Thế Phong như những bản cáo trạng kết án tử hình thế hệ mình. Nhà văn biết rõ điều đó, nhưng mọi thứ trên đời, dù ân nghĩa, dù tình yêu, dù phản bội đối với Thế Phong cũng chỉ như những phương tiện thôi, cứu cánh là nghệ thuật. Vì tin tưởng thế, muốn như thế, nên những sự kiện được viết thành văn, nó nằm ở ngoài dự tưởng của lương tâm mỗi con người bình thường. 

Trước bước đường tiến tới vinh quang, mỗi nghệ sĩ phải tuỳ tài, tuỳ trí để lựa chọn ngả nào thích hợp với khả năng, với ý hướng và cũng ít nguy hiểm nhất để tiến tới ước vọng, vì không một ai có thể đạt được danh vọng trong vài ngày, vài tháng. Nghệ thuật là một công trình, ở đấy, mỗi tài năng đều phải lần lượt kinh qua những cay đắng và gian khổ, để rồi cùng với thời gian mà trưởng thành hoặc tàn lụi đi như một tuyệt vọng vô danh.

Sự thực, cuộc đời Thế Phong đã trải qua quá nhiều cay đắng và hệ luỵ do hoàn cảnh đẩy tới với oán hận triền miên. Nhưng đáng lẽ những cay đắng đó chỉ được dùng cho riêng mình trong sáng tác, Thế Phong lại lôi kéo theo những số phận khác cùng gánh chịu để gây nên ngộ nhận. Nhà văn biết, nhưng bất cần, vì nghĩ rằng, bản chất đích danh của sự sống không nằm trong xã hội mà ở mỗi con người nghĩ về sự sống đó với những yếu tố cấu tạo nên nó. Thế Phong, một nhà văn đã dám nói thực, viết thực những gì mình nghĩ, dù cho sự nghĩ đó chỉ nhằm vào mục tiêu đã lựa chọn. Chính vì đã chọn lựa, nên Thế Phong chấp nhận cả tốt lẫn xấu để sử dụng nó với chiều hướng có lợi cho mình, cho văn nghiệp của mình là đủ. Trong nền văn chương thế giới, thiếu gì những tác giả viết về mình, về xã hội và thế hệ mình với những sự việc hiển nhiên vây chặt lấy mỗi số phận như Collette, Marcel Proust, v.v. nhưng các vị đó chỉ dùng những nhân vật chung quanh họ như bằng chứng điển hình cho một tầng lớp xã hội nào đó, chứ không chỉ đích danh, hơn nữa, các vai trò đã được văn-chương-hoá nên không làm phiền lòng người được nói đến. Độc giả cũng chỉ coi như xem cuốn tiểu thuyết với những tình tiết khúc mắc thuộc kỹ thuật dựng truyện mà không có mặc cảm đọc bản án kết tội. 
Thế Phong không viết như vậy, nhà văn đi vào từng sự việc và thuật lại y nguyên từng sự việc, tuy ở đôi chỗ có thay tên đổi họ, hoặc nguỵ tạo bằng danh từ riêng, nhưng những người cùng sinh hoạt chung môi trường, đoán biết ngay nhân vật đó là ai. Bởi vậy, những người được nhắc đến trong tác phẩm của Thế Phong, phần lớn là vật hy sinh, hoặc biến thành những viên gạch lót đường cho người viết đi tới sự nghiệp. Chính vì nhìn rõ cương vị của mình trong cuộc sống, một cuộc sống khốn nạn, tù hãm, bị vây lút bởi hoàn cảnh bất lợi cho riêng mình, nên đi đâu, ở đâu, Thế Phong cũng tự gây nên những sự việc, dù thuộc đời sống hay tình cảm, không nằm trong kích thước cuộc sống thông thường. 

Thế Phong, nhà văn bất mãn thường trực, bất mãn với mình, với người, với xã hội. Sinh ra đời trong bối cảnh thanh bình của miền Thượng du, suốt khoảng ấu thơ được nuông chiều trong tay mẹ hiền, cho đến khi vừa đỗ xong Tiểu học thì đất nước cũng bắt đầu rối loạn vì tình hình chính trị và quân sự. Nghĩa Lộ, quê mẹ của nhà văn, là căn cứ địa, là chiến khu của Việt Minh, như chiến khu Bắc Sơn thuở tiền khởi nghĩa. Mồng 9 tháng 3-1945 quân Pháp mất Đông Dương vào tay quân Nhật sau một đêm giao chiến, các toán quân Pháp đóng ở cao nguyên, một phần đã rút theo ngả Nghĩa Lộ qua biên giới Trung Hoa để chống Nhật. Việt Minh cũng chống Nhật nên các toán quân du kích hoạt động tích cực ở khu vực này cho đến ngày Pháp trở lại Việt Nam, và Nghĩa Lộ lại bị cai trị dưới sức mạnh của quân đội Pháp, mới ngày nào lếch thếch, quần áo tả tơi, ăn xin, chạy trốn đoàn quân của Thiên Hoàng. Người dân Nghĩa Lộ qua mấy lần thay đổi chế độ, tan nát cả sự nghiệp cũng như lòng tin tưởng và hy vọng!… 
Tất cả những diễn tiến trên, được Thế Phong nói rõ trong phần đầu của tác phẩm tự thuật: Nửa đường đi xuống (ấn bản đầu in Ronéo, 1960, sách in năm 1968). 

Nhân vật xưng Nguyên trong tác phẩm là tác giả. Thế Phong dùng danh từ đặc hữu này để thay ngôi thứ nhất. Nguyên, cậu bé có tình rất sớm, mới hơn 10 tuổi hễ trông thấy gái là mê, cái tật này làm khổ nhà văn suốt cuộc sống, còn làm luỵ bao nhiêu đàn bà, con gái nhẹ dạ! Hình ảnh, nào Hương, Trinh, Tiên, Nga, Hải ở lứa tuổi 12, 13, v.v. đều làm cậu bé mơ mộng, muốn chiếm đoạt. Thời gian qua mau, chinh chiến đã phá vỡ tất cả mơ mộng của tuổi thơ. Tây đi, Nhật đến, Việt Minh đánh, rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ trên mọi nẻo đường đất nước. Sự có mặt của đoàn quân Cách mạng tại Nghĩa Lộ với Hồng, Quân, Vũ và Trung đoàn trưởng Sắc. 

Trung đoàn trưởng Sắc đóng đô ở nhà một goá phụ, sau này, khi rút lui để lại cho bà một đứa con. Anh Trung đoàn trưởng tuy đã có tuổi, sắc mặt lầm lì, nghiêm khắc nhưng vẫn không lột bỏ hết quá khứ tình dục bỏng cháy, vì Cộng sản cũng chỉ là người với tất cả thú tính của nó. Quân đội Cách mạng không giữ được Nghĩa Lộ lâu, đám tàn quân Pháp chạy qua Tàu bữa nọ, quay về với trận chiến ác liệt, buộc quân Cách mạng phải triệt thoái. Nguyên làm bí thư cho Sắc nhưng không rút cùng quân Cách mạng, lại theo gia đình tản cư sâu trong rừng núi. Rồi ông Giáo, bố Nguyên, bị nghi ngờ theo Tây, bị bắt mang đi đâu không biết. Mẹ Nguyên nhất định trở về Nghĩa Lộ, về lại căn nhà thân yêu của mình với đồn điền và của cải chôn giấu. Nguyên cũng về theo mẹ. Căn nhà xưa, nay quân Pháp đóng, nhờ Nguyên biết tiếng Pháp nên công việc thu xếp cũng xong. Viên Thiếu tá Pháp Chỉ huy trưởng, thấy Nguyên thông minh nên muốn xin cho Nguyên sang Pháp học, Nguyên là con một, nên bà cụ không chịu. 
Louis, tên Pháp lai Thái, khi Pháp mất quyền, chạy theo quân Cách mạng, lúc nghe tin Pháp về, trốn theo quân Pháp, bây giờ được phục hồi cấp Thiếu uý, giữ chức vụ Trưởng đồn. Louis mời Nguyên giúp việc. Thoạt đầu Louis còn tử tế, sau cũng làm bậy, cho lệnh giết trâu bò của dân làng. Một buổi Louis đem quân ra đồng bắn trâu bò thì đồn bị tấn công. Nguyên chạy vào lô-cốt, một thương binh Pháp bảo Nguyên: "Anh bắn đi, tôi sợ!… Việt Minh nhiều lắm!…" Nguyên bắn thật. Nhờ khẩu trung liên đó mà đẩy lui quân địch. Nguyên được tuyên dương. 
Đời Nguyên còn qua nhiều giai đoạn vui buồn ở Nghĩa Lộ. Trung uý Guilleminot về chỉ huy căn cứ, yêu quý Nguyên vô cùng. Ông ta giúp đỡ Nguyên chẳng những ở Nghĩa Lộ, còn ở Hà Nội sau này. Một hôm Nguyên nhận được lá thư của Sắc, người Trung đoàn trưởng Việt Minh – gửi với lời báo tin ông Giáo vẫn khoẻ mạnh và Sắc đã thu xếp cho Nguyên đi Mạc Tư Khoa học. Chính vì bức thư này mà "petit Adjudant" Nguyên suýt bị tù do sự tố cáo bởi thù oán của đội Hồ. Sở dĩ Hồ có được lá thư vì lấy trộm của Nguyên trong lần đi tắm suối. Hồ giữ thư đó để làm áp lực với gia đình Nguyên trong vấn đề hắn định hỏi Bích, chị Nguyên làm vợ, không được. Sau cũng vì một tối đánh phé với Nguyên, Hồ thua cay nên ức, trình lá thư cho Trưởng đồn. Chuyện đó được giải quyết bằng cách quân đội Pháp chỉ cho Nguyên nghỉ phép dài hạn. 
Cuộc đời Nguyên từ đó rong chơi bạc bài, lấy tiền mua hàng của mẹ đánh thua hết, rồi vay nợ, ăn cắp tiền bỏ ống của đứa em họ, đánh đập tàn nhẫn em gái mỗi lần nó không vay được tiền. 
Tất cả những kỷ niệm, dù vui tươi hay cay đắng, Thế Phong đều viết ra, viết rất chân tình không úp mở: 

… Nguyên đợi Ny về, hăm hở hỏi: 
"Có tiền không?" 
"Không ạ, bác bảo…" 
"Tại sao?" 
"Bác bảo anh đến mà lấy". 
"Sao?…" 
"Bác bảo…" 
Ny muốn kéo dài để tránh anh thúc trả lời và những cái tát đổ hào quang con ngươi. Không bao giờ Ny về không có tiền mà không bị anh đánh. Nguyên đánh em rất vũ phu. Tiếng khóc lịm đi cho đến bao giờ chị Cửu can thiệp, Nguyên mới thôi. 
Trong quãng đời bỉ ổi và đau khổ đối với em gái, Nguyên không thể quên được! … 
(Nửa đường đi xuống, trang 157) 

Chắc Nguyên không bao giờ quên được, chẳng những đối với Ny qua từng trận đòn tàn bạo mà còn bao nhiêu chuyện khác, trong đó có nỗi đau khổ của người mẹ thương xót đứa con duy nhất với nhiều hy vọng về tương lai, nay nó như vậy! Những ngày dài nối tiếp đi qua khung trời Nghĩa Lộ. Nguyên vì thương mẹ, không đánh bạc nữa, bắt đầu làm lại cuộc đời trai trẻ của mình, bằng cách đốt rẫy làm ruộng. Nhưng có lẽ, định mệnh đã sắp đặt sẵn cho Nguyên những điều kiện để đi vào từng sự việc, dù may mắn hay rủi ro. Vì chuyện làm ruộng Nguyên gặp Quán, cô gái quê thuộc thôn Đỗng cách xa nhà Nguyên độ mươi cây số. Quán, con nhà thường dân, nghèo hèn nhưng trời phú cho sắc đẹp mặn mà với dáng điệu quý phái (?). Quán đã có chồng chưa cưới tên Hời (lính Partisan), một hôm đi hành quân lục soát bắt gặp Quán trong cót thóc rồi mê nàng, bắt buộc gia đình Quán phải gả cho hắn. Hời già và nghèo, nên hắn dự định giết chết những ai nhiều tiền của, để có phương tiện cưới vợ. Quán không yêu Hời, lẽ đương nhiên. Chuyện Nguyên gặp Quán là kết thúc một ước mơ và cũng để giải toả trong lòng niềm oán hận đời!… 
Cuộc tình rất thơ mộng của đôi trẻ cứ men theo những lối mòn, trên bờ nương, bên rừng cỏ cháy, trong từng đêm dài. 

… Những đêm tàn dần theo nhau, bao giờ đôi trẻ ấy cũng mong thế. Khi yên giấc, là lúc cơ hội yêu đương sống động… 
(Nửa đường đi xuống, trang 176) 
Câu chuyện này làm gia đình Nguyên rất đau khổ. Quán, con nhà nghèo lại có chồng dù chưa cưới. Nhưng tuổi trẻ Nguyên đâu cần biết cái đó, cứ nhắm mắt theo tình yêu dẫn lối. Nhưng cuối cùng, Nguyên vẫn phải xa Quán, vì sợ bị tù theo đơn thưa, cũng do thù oán. Nguyên buộc lòng phải rời Nghĩa Lộ. Thế Phong đã viết những dòng thực sống và cảm động khi bị giam ở lô-cốt một đêm. 

… Bước xuống hầm mùi tanh hôi xông lên, khi thấy anh vào, một tù binh nhếch mép cười gượng rồi im lặng. Nguyên không để ý đến sự có mặt của người bạn xấu số kia. Nguyên còn lợi dụng những giây phút còn ánh sáng, nhìn qua lỗ hổng lô-cốt, tìm hình bóng Quán, Nguyên cắn răng như muốn phá tan tù ngục và sự có mặt của thép gai xích sắt, tường vôi. Vô hiệu, chẳng tìm thấy Quán mà bóng đêm ập xuống. Xuống quá nhanh và phũ phàng! 
Muỗi bắt đầu dạo nhạc. Người bạn tù bảo Nguyên: 
"Tôi là Hoàng Văn Định. Tối nay tôi bị chúng xử bắn. Tôi yêu nước và đã mang bom ba càng ném vào chúng. Nhưng anh ơi! Bao giờ tôi mới thấy lại mẹ già, vợ và con thơ tôi. Tôi quê ở Hà Đông, Tiểu đoàn 12, Trung đoàn 97. 
… Anh làm sao mà gặp gia đình tôi, để nói rằng trong cuộc kháng chiến, tôi đã chết bên anh, trong một miền hẻo lánh, để sau này kháng chiến thành công, gia đình tôi khỏi phải mong đợi…" 
(Nửa đường đi xuống, trang 182) 

Sự thực, trong cuộc kháng chiến chống Pháp chẳng phải chỉ có một mình Hoàng Văn Định chịu cảnh tù tội, bị đem xử bắn mà còn rất nhiều tấm gương anh hùng vì hai chữ Việt Nam dám hy sinh hết không tiếc nuối. Trường hợp Định với lời than van, chỉ chứng tỏ được cái tình người chứ chưa biểu lộ được cái quyết tâm của mỗi con người quốc gia yêu nước vào những năm 1946 đến 1954. 
Vì may mắn và cũng do bà mẹ, Nguyên đi Hà Nội học để tránh cái không khí nghẹt thở của Nghĩa Lộ. Nguyên đâu có ngờ, chuyến đi này là mãi mãi, không một lần trở lại thăm thôn cũ quê xưa. Ngồi trên máy bay Nguyên nhìn xuống phi trường để tìm hình ảnh Quán, người yêu, người đã cho mình những ân ái mặn nồng của tuổi thơ, người đã khắc sâu vào tâm khảm mình những kỷ niệm đến chết chẳng hề phai lạt. Trong khi đó, Quán đến muộn, nàng không kịp nắm chặt lấy hình hài Nguyên để tỏ bày đôi câu giã từ. Nàng đứng ngớ ngẩn ở sân bay như con chim nhỏ lạc đàn. Khi máy bay sắp cất cánh, Nguyên mới chợt nhận ra vóc dáng thân yêu: 

… Cánh quạt bắt đầu quay. Cánh cửa đóng lại. Bây giờ Nguyên mới hoàn hồn nhìn lại. Nghĩa Lộ từ giã mình bằng một sự yên lặng cô đơn. Bỗng Nguyên giật mình. Người đàn bà kia là nàng. Phải, đúng là Quán. Nguyên dùng bàn tay đập vào cửa kính. Và càng mạnh, khiến người chiêu đãi viên đi lại hỏi. Nhưng anh không kịp trả lời. "Tại sao ông đập cửa kính?" Vẫn đập nữa, mãi sau họ bảo: 
"Ông có quên gì, thì chúng tôi sẽ gửi về sau cho ông". Nguyên thờ thẫn. Quán bây giờ chỉ còn là một dấu đen nhỏ. Anh gục đầu xuống đôi cánh tay… 
(Nửa đường đi xuống, trang 185) 

Trên đây, những dòng cuối của phần đầu cuốn sách. Khung trời Nghĩa Lộ trở về sau, được Thế Phong nhắc đến như một kỷ niệm đan xen những vui buồn và giọt máu Nguyên để lại trong thân thể Quán cũng làm nhà văn băn khoăn không ít ở những trang nối tiếp. 

Thế Phong vì còn trẻ và quá tự tin nên luôn luôn đề cao mình về trí thông minh và lòng can đảm ngay từ thuở nhỏ. Điều này có thể đúng, nhưng có lẽ, khi viết nhà văn quá chủ quan, hơn nữa, Thế Phong thực hiện cuốn sách vào năm gần 30 tuổi, nên chỉ viết theo sự chỉ dẫn của tiềm thức, do đó, thể văn hồi tưởng nếu có tác động đến tâm thức tác giả, cũng do sự tán tụng mình ở trong khuôn thức nào đấy để tự thoả mãn! 
Nhưng phải xác nhận, qua những sự việc thuộc phần đầu cuốn Nửa đường đi xuống, Thế Phong phải dùng hết khả năng và sự lanh lẹ của mình để đối phó với nhiều trường hợp dù thuận, dù không. Từ một đứa bé được nuông chiều, bước sang cuộc đời đầy khốn khó, tác giả đã dùng trí năng để kinh qua được rất nhiều trở ngại, chỉ riêng vấn đề tình ái, tuy tuổi còn nhỏ mà đã biết đam mê như gã thanh niên trưởng thành, nhất là giai đoạn 1945, khi nếp sống xã hội Việt Nam nói chung, vẫn chưa có gì đáng khích lệ trong vấn đề luyến ái. Ngay cả đoạn nói về vai trò của Sắc – người Trung đoàn trưởng Việt Minh – qua sự phân tích tâm lý, với nhận xét về mặt tình cảm của nhân vật, làm những trang sách trở nên nghi vấn. Vì ở cái tuổi 13, 14 dù thông minh cách nào đi nữa, cũng chẳng thể đoán biết một cách minh bạch về hành động của người Cộng sản đã chiến đấu cho Đảng, vì Đảng, đã hy sinh tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa gối chăn cho Cách mạng. Người đọc tin chắc phần này được viết ra với suy luận, sau hơn 10 năm ngẫm nghĩ, đã sống, đã từng trải qua nhiều vui buồn thế cuộc! 

Phần II của cuốn Nửa đường đi xuống (hay quyển truyện thứ hai) mở đầu bằng lá thư gửi một nữ y tá, người yêu. Mỗi phần sách, một phần đời của tác giả. Vì là tự thuật, nên tất cả mọi sự việc đều được viết ra có lớp lang, tuần tự theo thời gian. Nội dung lá thư chứa chấp nhiều cay đắng, hờn hận. Nó là lời chào vĩnh biệt. Nó là cơn đau vò xé nội tâm người trong cuộc. Tình yêu, ôi tình yêu, đứng trước nó, con người trở nên hèn mọn và sẵn sàng chấp nhận khổ đau một cách tự hào!… 

… Cách đây hai năm, anh đã viết cho em nhiều thư lắm. Nhưng chưa bao giờ gửi, mặc dù em cùng sống với anh trong một thành phố đang quen, cùng một bầu không khí lành lạnh buổi sáng, nóng bỏng càng tăng lúc non và già trưa. Hẳn là em ngạc nhiên, lẽ tất nhiên rồi, vì anh muốn đoạn tuyệt với quá vãng. Song anh làm sao có thể là một con người như bao xưa nữa tuyên bố trước mặt mọi người: Tôi lột xác và bỏ ngày qua, để nhìn rõ hiện tại, như thế là xây dựng cho ngày mai. Gần mười năm phục vụ, gần sáu năm thực tập cái lề lối, cái nếp sống bề ngoài thơn thớt nói cười để mà nham hiểm giết người không dao. Rồi anh chợt nhớ, nhớ quá lắm! Có những đêm, anh chắp tay vào má, trước ngọn đèn dầu ở xóm Chùa, bên bờ sông Tân Định, suy nghĩ mông lung, sau khi đã tự tử dần bằng những ly cà phê sánh đượm… 
(Nửa đường đi xuống, trang 189-190) 

Qua những dòng thư, người đọc đoán biết tâm trạng của tác giả. Cuộc đời đã quất những chiếc roi da ngang mặt, làm nổi hằn từng đau đớn qua chứng tích văn chương. Tác giả đã nói thực cho người yêu biết đừng tin tưởng vào bề ngoài mà xét đoán cái phong lưu bên trong, vì bề ngoài chỉ là chiếc mề-đay giả đấy thôi. Cả hai mặt đều khác sẵn từng nét xấu xa! Cuộc đời đã dạy cho Thế Phong nhiều bài học, nhưng không bao giờ nhà văn oán trách sự xấu nếu có đến với mình và cả sự tốt của người đời, cũng chỉ để giúp cho tác giả biết đứng trên hai thứ đó mà nhận diện cuộc sống đích danh. 
Tác giả cũng chẳng cần che đậy, giấu giếm sự nghèo túng. Bạn mời đi ăn cưới, ăn mặc thật "luých", cúc manchette hình tareau đẹp bậc nhất của Paris mà thiếu 5 đồng tiền taxi phải nhờ chú rể hỏi vay một, trong những cô gái có mặt ở tiệc cưới. Đi từ lá thư vào truyện không cần qua đoạn chuyển tiếp thông thường của kỹ thuật hành văn, Thế Phong đưa được người đọc trở lui quá khứ, trở về khung trời Hà Nội, khi Nguyên vừa góp mặt, sau một chuyến bay. Từ đó, Nguyên ôm Hà Nội vào lòng với đam mê và tội lỗi. 

Đến đâu, ở đâu, bóng dáng tình yêu cũng như bầy ma quái quấn riết lấy thân phận Nguyên để làm khuất chìm mọi ước vọng khác. Nguyên không ở đâu yên chỗ vì tính tình bừa bãi, phóng túng không chịu ép mình dưới khuôn thức nào của nếp sốn, nên sự đi, ở, đói, khát là những gần gũi nhất, trong một đời sống đã được điểm danh. Nhà ông Đội, một gia đình phong kiến rởm với kẻ hầu người hạ, với sự khinh bạc trong cách xưng hô làm Nguyên hờn giận, nên chỉ là những ngày tạm bợ. Rồi đến quán Mai Hương, vừa ở trọ vừa làm bồi bàn nhưng lòng vẫn nhớ Kiều, người bạn gái Tàu lai quen từ khi còn ở Nghĩa Lộ. Mấy tháng sau lại vào ở ký túc xá Phan Đình Phùng, phố hàng Đẫy, rồi lại tìm Kiều với mối tình dang dở, nhưng nàng đã lấy chồng Pháp để cứu gia đình lâm nạn. U hoài bắt đầu đến và Nguyên xin gió lạnh ở đâu, hãy về gác trọ thật nhiều để làm bạn với cô đơn! 

Nguyên đi học, nổi tiếng là hy sinh quấy nghịch đã mấy lần suýt bị đuổi, tuy có khiếu về sinh ngữ. Tuổi học sinh vốn vô tư, hồn nhiên, nhưng vì vào đời quá sớm nên Nguyên đã có những nhận định và phong cách của một tráng niên. Trong mấy năm học, thi không bao giờ đậu vì ngoài môn sinh ngữ, môn nào cũng bết. Hình ảnh Thương, người nữ sinh cùng trường đã làm đẹp tuổi niên thiếu bằng những ước mơ hoa bướm. Một niên khoá qua đi rất nhanh. 

Một buổi, người cô ruột của Nguyên đến ký túc xá bảo Nguyên về nhà ở. Nguyên mừng quá vì đang lo Nghĩa Lộ mất về quân kháng chiến sẽ không có tiền theo học, may gặp người cô giàu, thì dù cho Nghĩa Lộ có tan nát vì chiến trận, Nguyên cũng chẳng cần. Nhưng bài học đầu tiên đến với Nguyên là hành động của bà cô ruột, thải một lô quần áo cũ của chồng cho cháu. Nguyên bị chạm tự ái cho mình là con nhà giàu, mặc hàng Dormeuil đi học, đâu thèm mặc thừa. Giữa lúc cần tiền, một phong thư và chiếc "măng-đa" từ Nghĩa Lộ báo tin Quán, cô gái quê xứ Thái, đã sinh con gái. Trong khi đó mối tình cô nữ sinh tên Thương và Nguyên vẫn đi đều nhịp. Cách đó ít lâu, nhận được tin mẹ ốm nặng, Nguyên cũng không trở lên Nghĩa Lộ được vì mặt trận Thu Đông đang dìm cả vùng rừng núi vào biển lửa. Người mẹ rất mực thương chiều con, không một lần nhìn lại mặt Nguyên, từ buổi tiễn đưa đến lúc nhắm mắt lìa đời. Cả người cha bị bắt đi mất tích, sống chết ngày nào cũng chẳng ai hay biết!… 
Nguyên bắt đầu viết văn. Từ đây, những đêm dài… Một nhận xét, Thế Phong quá tham lam trong vấn đề chọn lựa sự kiện đưa vào tác phẩm. Có nhiều việc thừa, hoặc không mấy cần thiết cho kỹ thuật dựng truyện, vẫn được viết tới, làm tâm trí người đọc bị phân tán, không gây nên tác động mãnh liệt vào một chủ điểm nào đó, được coi như chính yếu. Nửa đường đi xuống giống cái cây quá nhiều lá, đứng nhìn, người ta chỉ thấy một màu xanh nặng nề bao phủ mà không nom rõ cái "thế" vững chãi của thân cây với những nhánh, cành đang vươn cao sức sống. Có lẽ, vì nói tới mình, nên tất cả những gì "thuộc về mình" khó lòng gỡ bỏ, dù cho vì nó, tác phẩm có mất đi một phần hiệu năng truyền cảm. Chủ quan bao giờ cũng nguy hiểm, nhất là đối với văn chương, chúng ta không thể bắt chước G. Duhamel với ý nghĩ thầm kín: ôm ấp những cái gì thuộc giai cấp mình, chung quanh mình mà thôi. 
Tội lỗi và tội lỗi, ở đâu, Nguyên cũng tạo ra cho mình chiếc "vực thẳm của Pascal". Mỗi lần phạm tội, Nguyên đều tìm nguyên cớ để khoả lấp, như trường hợp với Bảy, cô cháu họ của ông chú rể: 

… Ở Hà Nội, những chiếc xe bọ hung màu xám chạy qua phố. Trên xe là những bộ mặt sát khí của các chú lính Pháp. Nguyên cảm thấy rằng sinh mạng con người chỉ là sợi tơ nhện chăng vào đêm giông tố. Nguyên thèm khát những bộ ngực nở nang…


Cái gì đến phải đến, Nguyên đã bị dục tình quật ngã, rồi Bảy mang thai sau hơn một trăm lần "ghi sổ". Chuyện này lúc đầu mọi người đều nghi cho chồng cô Thảo vô luân, đã ăn nằm với cháu gái. Nguyên càng tỏ ra mình vô can trước dư luận, nhưng sau mọi người đều biết là Nguyên. Bảy phải bỏ nhà ra đi với cái thai hơn 7 tháng. Nguyên đưa Bảy số tiền nhỏ còn lại, để nàng chi dụng, từ đó là hết. Đau thay thân phận đàn bà!… 
Nguyên vừa đi học vừa tập viết văn, gửi đăng ở các nhật báo. Cái sự nghiệp văn học, Nguyên thường nhìn qua vóc dáng Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Tô Hoài, v.v. còn xa lắm! Nguyên ở nhà bà cô cũng chẳng yên ấm gì. Vì không chịu được nếp sống của Nguyên, nên hai cô cháu gây gổ. Bà cô mắng rủa và đánh Nguyên. Tuổi trẻ không dằn được, Nguyên đấm lại bà cô sưng vù mắt. Sau đó, Nguyên bắt đầu lang thang với câu thề: Không bao giờ mình trở lại cái nhà này nữa. 
Nguyên đến ở nhờ nhà bạn miệt chùa Vua. Buổi tối đang đánh phé với 3 bạn khác, có vụ Cảnh sát xét nhà. Lẽ dĩ nhiên, Nguyên không có tên trong sổ gia đình, phải về nằm bót. Khung cảnh cuộc thẩm vấn, được Thế Phong viết lại vô cùng xác thực, đã nói lên cái không khí nghẹn thở của Hà Nội, trong thời gian Pháp tạm chiến thành phố: 

… Trưởng ban Điều tra chững chạc hỏi: 
"Tên cậu là gì?" 
"Thưa ông, Tạ Mạnh Nguyên". 
"Làm báo?" 
"Vâng". 
Một lát sau, hình như hiểu ra điều gì, Trưởng ban "rờ-sẹt" gọi một thanh niên trẻ lại: 
"Xem sổ có tên này không?" 
Nguyên mừng thầm. Đến khi ông Trưởng ban quay phắt lại gọi: 
“Hoàng ơi, affaire đây rồi. Nhà báo, c’est lui." Nguyên bắt đầu hơi lo, nhưng chưa biết chuyện gì. Nhớ lại lúc gần tảng sáng, anh nhìn sang khe cửa bên kia. Nhân viên điều tra thay phiên nhau đánh đập, đàn bà có, đàn ông có, choai choai có… Những tiếng khóc thét lên, im bặt tiếng van lạy như tế sao: Con đau quá!… văng vẳng trong tiềm thức anh. 
"Tên mày là gì?" 
"…" 
"Mày buôn lậu Aspirine, Quinine, Streptomycine đem đâu? Tiếp tế cho Việt Minh, khai đi, đúng rồi, lại Quinines jaunes…" 
"Con lạy quan, con trót dại buôn lấy tiền nuôi gia đình…" 
"Lớn có thể đẻ con hàng mấy đứa, còn trót dại… Thằng gì… đâu, đánh cho nó khai. Allez…" 
"Dạ…" 
"Này gia đình này, không khai này, này không khai này, đ.m. chúng mày. Ông đánh cho bằng chết, có chửa này, thì… thời ra con này… Kh…ai…k…h…a…i hay không?" 
Tiếng người đàn bà ban nãy, bây giờ chỉ còn giãy giụa vang từ trong căn phòng điều tra ra. Nguyên nhìn Hiển, cùng thấy cảnh loài người hành hạ lẫn nhau. Họ không nói, nhưng cả hai biết rằng, người đàn bà có đôi mắt đẹp lúc nãy, chỉ còn là một thân xác lõa thể bị dày vò. Hiến chương Liên Hiệp Quốc! Hiến chương Liên Hiệp Quốc bảo vệ nhân quyền… 
"Đánh cho bỏ mẹ nó đi", một người ra lệnh, "dí điện vào "số ta" nó!" 
"Trời ơi! Con lạy quan, con chết, chết mất…" 
"Chết đâu dễ thế, khai đi, nhanh lên quan tha, Marie hay Jacqueline, Ngọc, Tuyết, Nhung ai là Trưởng ban địch vận của các con. Khai đi… quan tha, ngoan lên nào. Má đỏ thế kia, da trắng thế kia, hoài của… khai để mà sống chứ? Khai đi…" 
"Con chết mất, xin quan chớ… hại đời con là con gái… con khai, con khai, quan tha con… trời ơi… trời ơi!" 
(Nửa đường đi xuống, trang 267-268) 

Đoạn văn đã vẽ lại trước mắt người đọc một pha tra tấn thường xảy ra ở bất cứ quận Cảnh sát nào dưới thời Pháp chiếm lại Hà Nội, sau khi đã đẩy lui Trung đoàn Thủ Đô qua bên kia bờ Hồng Hà và đi xa nữa!… 
Nguyên đã thấy chán nghề viết báo, có ý định vô Sài Gòn làm cuộc phiêu lưu. Nguyên xuống Hải Phòng, lên tàu Ville de Sài Gòn vào Nam với số tiền do mưu mẹo của Hiển người bạn tốt. Vào Nam, Nguyên không quen ai, ngoài hành lý tuỳ thân và đôi lời gửi gấm của bạn bè, với lá thiếp của Minh (nhà văn Nguyễn Minh Lang) giới thiệu người bạn làm báo ở Sài Gòn. 
Trong suốt phần II của Nửa đường đi xuống, sự thật cũng chẳng có dữ kiện nào đặc biệt để mà nói, ngoài chuyện quấy phá, nghịch ngợm của tuổi trẻ, với vài lỗi lầm nặng nhẹ về dục vọng. Nhưng vì tác giả muốn trình bày sự diễn tiến của một đời người dấn thân vào trong văn chương, với những mốc vui buồn của nó, một cách trung thực, nên sự việc được nói tới, viết ra, đều ở ngoài văn chương. Phải qua đến phần III (quyển truyện thứ ba), Thế Phong mới thực sự đi vào môi trường dự định. Từng khuôn mặt anh em, bạn bè, người tình đã mất đi vĩnh viễn hay còn sống cùng kích thước không gian Sài Gòn, đều được vẽ lại với những hận thù và tiếc thương đằm thắm. Sóng gió bắt đầu thổi từng cơn giận dữ. 
Những ngày đầu ở miền Nam trôi đi trong khốn khó. Đêm khách sạn cô đơn và lo ngại ngày mai, đến nỗi từ chối cả đàn bà mời vui. Nơi đây Nguyên gặp Hồ Hán Sơn, người chuyên viết lý thuyết Cách mạng, sau cũng vì Cách mạng, chết tối tăm!… Rồi cuộc đời đẩy đưa, vì có viết mấy cuốn sách về chính trị, Nguyên được giới thiệu để giữ chức vụ Ủy viên Báo chí kiêm Bí thư của Tổng trưởng Thông tin Phạm Xuân Thái. Nhưng miếng đỉnh chung này cũng chẳng hưởng được bao lâu. Sau câu chuyện xích mích, Nguyên xin thôi, để sau này phải thốt lên lời oán trách gay gắt, khi bị Phạm Tổng Trưởng từ chối không cho mượn tiền: 

… Thuê nhà được hơn một tháng, Nguyên bắt đầu thất nghiệp. Chính anh tự bỏ việc làm. Nguyên biết ngày mai mình chẳng còn gì để bấu víu, nhưng anh đành bỏ. Ban đầu anh còn tiền ăn, dần dần không xoay sở vào đâu được, anh đến nhà một hoạ sĩ ăn nhờ. Tân ngạc nhiên khi thấy bạn không còn bút Parker treo ở túi áo như mọi bận: 
"Sao bút đâu? Bán rồi sao?" 
"Tất nhiên. Nếu tao không cầm quần áo toàn diện, bút máy, đồng hồ, không có tiền thuê nhà. Tao vay Phạm Tổng Trưởng, nhưng lão ta kêu không có. Chúng nó làm chính trị chỉ cần mình khi chúng cần. Nên kinh nghiệm dạy cho biết, khi chúng vời mình đến, phải cắt cổ chúng mà lấy tiền. Nếu không nắm cơ hội ấy, đừng có hòng moi tiền được của chúng…" 
(Nửa đường đi xuống, trang 305-306) 

Câu chuyện túng thiếu, chuyện thường xuyên đối với hầu hết những người làm văn nghệ, nhưng sự túng thiếu đối với Nguyên, một phần do tính hào phóng, lúc có tiền ăn chơi cho đã, ngày mai xét sau, lúc xét được, đã muộn! Biết bao nhiêu lần lỡ đà, quá trớn về tiền bạc cũng như tình ái, chẳng lần nào giúp cho Nguyên được mảy may kinh nghiệm để vượt thoát. Trên thực tế, Nguyên có thể kiếm ra tiền bằng nhiều cách, khi làm Ủy viên Báo chí, nhưng tuổi trẻ, còn nhìn đời qua lăng kính lý tưởng, Nguyên đã để lỡ, chắc không bao giờ tìm thấy lại cơ hội đó nữa! 
Cái nghề viết văn, có gì đâu mà nhiều người ham mê vì nó, chịu khổ cực cả một đời. Có lẽ, nó là cái nghiệp! Sách viết xong mang bán, đi rạc cẳng, không chắc đã bán nổi, dù bán với giá tiền chết đói: 

… Bằng hẹn với anh đã nhiều lần lắm. Không còn xe đạp anh đi bộ vào Chợ Quán. Nhưng phải đi làm sao cho đỡ mệt, đầu tiên anh đi bộ đến nhà Tấn, hy vọng có tiền uống nước mía. Tấn đi vắng, anh nhìn con đường dài rồi trẩy bộ. Đến nơi Bằng lại lỡ hẹn với anh, mặc dầu cuốn sách in được mấy chục trang. Mỏi mắt đợi, ông quản lý của nhà xuất bản thương hại bảo: 
"Tôi chưa thấy ai chịu khó hơn anh!" 
Mười lần đến nhà xuất bản là mười lần không gặp. Đừng buồn, cố rán thì sau này sẽ nổi tiếng, đỡ cực hơn! 
Ông ta đưa cho Nguyên mười đồng, biết rằng Nguyên hết nhẵn tiền. Trở lại nhà bạn, mong đúng bữa, với bát cơm nóng ấm bụng vào buổi chiều. Nguyên nghĩ đến mùi thơm phức của cơm bốc lên, quả là khoan khoái, thèm muốn. Nguyên nhịn đói là thường. Nhiều buổi hết tiền, anh nằm ngủ hay cựa mình để nhớ đến mùi thơm xưa kia, ở tửu quán xa hoa. Ngày ở xóm Chùa, Nguyên đã không chỉ nhờ những bà hàng xôi cho chịu mỗi sáng, mà còn nhờ bà bánh chưng buổi chiều. Lỡ hôm nào, họ đau ốm hay không qua đây, Nguyên chờ đói… 
(Nửa đường đi xuống, trang 308) 
Cứ như thế, nhà văn kéo dài cuộc sống trong khốn quẫn triền miên hỏi làm sao không căm giận cuộc đời? Tác phẩm bán đắt, bán rẻ quanh quẩn tiêu cũng hết, trong khi đó, vẫn phải ăn, phải thuê nhà, phải tiêu một vạn thứ linh tinh, làm gì còn tinh thần mà ca tụng cuộc sống. 
Trích Nhật ký của Nguyên, tháng 1 đến 12-1957: 

… Lại hết tiền rồi. Bắt đầu chịu tiền cơm. Chưa biết ngày mai phiêu diêu rồi định đoạt cuộc sống ra sao? 
Chị chủ nhà giục tiền quá. Ba tháng rồi. Xuống nhà bạn xoay tiền không ra. Anh ta đưa mình lên quán Văn Sửu, định giao cho mình trông nom một loại sách văn nghệ, in nửa tháng một kỳ. Cuốn đầu tiên là của mình. Rồi công việc không đi đến đâu, lại ngưng. Trong khi ấy nợ chủ quán hai nghìn. 
… 
Thằng Vân đưa về nhà nó, nuôi mình gần một tháng viết tiếp cuốn sách. Và sửa soạn ra thăm bà cô để vay tiền trả nợ. Văn xem bói bài Tây cho mình, bảo chuyến đi xa có tiền. Mình chẳng tin bao giờ, sao lần này mình lại hy vọng có tiền như quẻ dặn là ở bà cô chăng? Nhân tiện ra thăm anh bạn văn nghệ gửi thư cho mình, ngày phát hành một cuốn sách nhỏ. Anh ta mời nhà văn ra chơi ăn bí-tết, vì trong thư anh viết theo giọng châm biếm: ngày xưa Vũ Trọng Phụng khi chết, than không có bí-tết. Tôi rất kính trọng và xin nói thật vậy. Lời của anh ở cuối thư.


Người bạn văn nghệ quý tài Nguyên mời ra ăn bí-tết, ai ngờ lại bị Nguyên lấy mất số tiền mười ngàn đồng do nhà triệu phú Trần Hoài dành dụm. Sau, trong cuốn Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, tác giả có viết lại lần nữa việc này. 
Ăn cắp, hai chữ đó xấu lắm, một người biết tự trọng và có chút lương tâm, dù đói khổ cách mấy cũng không làm. Thế Phong đã làm vì quá túng thiếu, nợ nần, nào tiền nhà, tiền cơm, tiền cà phê, thuốc lá quá nhiều, đến nỗi người chồng nghi vợ có tình với Nguyên nên không đòi. Nguyên cần phải sống để viết, để hoàn thành dự ước: trở thành nhà văn nổi tiếng. Việc làm bất chính nay đã giải thoát cho Nguyên một thời gian ngắn trong vấn đề sống, nhưng những dằn vặt, lo sợ tù tội vẫn hằng đêm lởn vởn trong tâm trí và làm khổ Nguyên không ít. 
Những người xung quanh đối với Nguyên không hoàn toàn xấu cả, còn có chị Năm Hưởng vẫn thỉnh thoảng phần cho Nguyên những thức ăn như xôi chè hoặc quả chuối. Chị Năm Hưởng, số phần lận đận qua mấy cầu chồng con. Những ý nghĩ đen tối về xác thịt bắt đầu nhen nhúm để đốt cháy lương tri Nguyên trong thèm khát dục tình. Nguyên thức khuya viết, những dòng chữ nào xuống mặt giấy vì đuôi con mắt và nụ cười của chị Năm như mời mọc ân ái. Chính vì muốn xâm chiếm chị Năm, Nguyên đã để ý cách thức mở cửa sao cho êm và chui vào mùng chị bằng cách nào? Đêm khuya, chờ cho anh chị chủ nhà ngũ kỹ, Nguyên thi hành dự định. 
Mọi việc được giải quyết một cách suông sẻ. Sáng hôm sau, hàng xóm nghe tiếng chị Năm Hưởng nói như phân bua với chị Hai Nụ, chủ nhà Nguyên: Con mẹ ngủ nhờ đêm qua lười như hủi, ai lại giận chồng con mà nằm lì ở nhà mình. Nguyên cười trong chăn. Nhưng rồi, khốn khổ thay người đàn bà ấy, một mầm sống đã hình thành trong bụng, để rồi sau này, khi sinh nở, chỉ nhận được một hộp Hépatrol, thuốc bổ máu, giá hơn trăm bạc! 
Thế Phong đã gieo vào cuộc đời vài mầm sống với dăm người đàn bà gặp gỡ trong các hoàn cảnh đặc biệt. Những đứa trẻ không may này, nếu trời để làm người lớn lên, không biết chúng có đọc lời nhắn trong cuốn sách để tìm thấy bố? Chúng sẽ nghĩ gì về trường hợp khốn nạn, ở đó, chúng góp mặt! Nguyên không hoàn toàn bất nhẫn đối với đàn bà cả đâu, Nguyên đã dám từ chối tình yêu cô Năm, người đàn bà cùng xóm gửi tặng. Cô Năm cũng lỡ dở đường chồng con, chỉ vì nghĩ đến chị Năm Hưởng với cái bào thai, đã mấy lần dùng thuốc phá không được, hối hận và hối hận!… 
Đời sống cứ thắt dần từng nút, từng nút như sợi dây oan nghiệt đang xiết từ từ vào cuống họng kẻ chán đời. Nguyên đã cố gắng đến cùng, vẫn không giải quyết được vấn đề cơm áo. Cuốn sổ ghi nợ cứ chồng chất những con số nặng nề làm Nguyên muốn gục xuống. Một chiều, chị Hai Nụ nói: 

"Cậu Nguyên, chiều hôm nay, không thể nào nấu cơm cho cậu ăn nữa. Chị đưa tay lên lau mắt. Anh Hai tôi nói thế này, có khổ tôi không? Bảo tôi với cậu có tình ý với nhau, tôi sợ không đòi cậu!…" 
(Nửa đường đi xuống, trang 349) 
Qua phần IV của Nửa đường đi xuống (quyển truyện thứ tư), Nguyên đành rời bỏ Sài Gòn đi Rạch Giá để kiếm sống bằng nghề dạy học. Cũng chẳng được bao lâu, lại trở cánh quay về thành phố, như con thiêu thân không xa rời được ánh sáng. Những kỷ niệm đau đớn hay oán hận đều được nhắc nhở minh bạch, kể cả chuyện bị bệnh phong tình do cô gái làng chơi gửi tặng. Nhiều người cho rằng Thế Phong "cynique", nhưng đó là bản chất của Thế Phong, nhà văn không nguỵ tạo, nếu khác thế, chẳng còn Thế Phong hôm nay. 
Những ngày vô định tiếp nối kéo lê trong phiêu bạt, tối nằm ngủ sợ ngày mai chóng sáng, phải nhìn thấy thực chất cuộc đời với những khuôn mặt chủ nợ. 
Nguyên bứt đi khỏi xóm Chùa bằng cách bỏ trốn, để lại tất cả sách vở và đồ nhật dụng. Các tập bản thảo đã được lén lút mang dần ra khỏi nhà từ mấy bữa trước. Một cuộc sống tay ba: Tô, Thảo, Nguyên: những người trai bị đời hất hủi, được tổ chức trong một khuôn khổ không mấy khích lệ, vì luôn luôn họ bị ám ảnh, bị mặc cảm qua ý kiến của Tô: 

"Mày bảo tao không chán chường sao được. Khi tuổi thanh niên của bọn mình đã chết một cách bất đắc dĩ. Chỉ còn sa ngã vào tình yêu, dù truỵ lạc, dù chà đạp lên luân lý!…" 
(Nửa đường đi xuống, trang 373) 
Vì vững tin như vậy, nên họ tạo một lối sống riêng và Nguyên có leo qua vách để làm tình với mụ me Tây về già trong đêm nào đó, cũng là chuyện thường. Khổ thay, người đàn bà đã lọc lõi ở đời về đường tình ái, vẫn bị thằng con trai đáng tuổi em út mình lừa dối! 
Trong hoàn cảnh khốn khó như thế, những người ở xa Nguyên, không nhìn thấy sự thực, nên vẫn mơ mộng trong từng cánh thư gửi từ Hương Cảng. Nói rằng yêu, chưa đúng vì chẳng có lời yêu đương nào được ghi nhận, nói không yêu cũng sai, vì nội dung lá thư có hàm chứa những ý tình. Thế Phong đã viết rõ chuyện này trong cuốn tự truyện: Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời (Đại Ngã tái bản, 1970) với những ray rứt, đứt nuối ở mỗi dòng, mỗi chữ. 

Trong suốt phần IV của tác phẩm, dành để nói về mối tình trên với vài hình bóng con gái khác cùng những dang dở. 
Phần V, cũng là phần chót của Nửa đường đi xuống, được viết với tâm trạng vô cùng bi đát. Tình yêu cũng chỉ là hư ảnh. Nghệ thuật còn xa vòi vọi, chân trời vẫn nặng trĩu mây mù. Cuộc sống nối tiếp trong thiếu thốn trường kỳ. Với tình yêu, không phải bao giờ Nguyên cũng là kẻ chiến thắng, dù rằng, có người con gái đã viết cho nhà văn, những dòng chữ đằm thắm, chân tình: 

"Ông Nguyên ơi! Ông phải nhớ rằng, giả thử xã hội này tất cả đều ruồng bỏ ông, ông hãy tự hào sung sướng có một người bao giờ cũng tìm ông…" 
(Nửa đường đi xuống, trang 490) 
Nhưng đau thay, cũng có giọng khinh bạc đến với Nguyên, qua câu chuyện được thuật lại cùng trong thư đó: 

"… 
"Thưa cô, tôi trông cô quen lắm". 
"Thưa cô, có phải cô là cô Lam không ạ?" 
"Thưa cô, cô có nhận được báo của tôi gửi tặng chưa ạ?" 
"Thưa cô, cô còn nhớ tôi không?" 
"Thưa ông, tôi không còn nhớ ông là ai, tôi có quen một anh quét đường cùng ở xóm Chùa với tôi, mỗi lần tôi đi học về anh ta hay đón. Nhưng lâu nay, tôi không gặp nữa, vì xóm Chùa không còn rác nên anh ta thất nghiệp…" 
(Nửa đường đi xuống, trang 491) 
Hình ảnh những cái rủi luôn luôn chờ đợi, rình rập xung quanh Nguyên, đợi dịp thuận tiện xông ra đẩy Nguyên xuống bùn đen. Đã không tiền, không nơi ở, lại còn gặp nhiều điều không như ý, nên có lời nào viết về bạn hữu – trừ một vài người vì quá tốt hay may mắn – đều bị tác giả ném vào mặt những lời sỗ sàng, tàn bạo. Mỗi khuôn mặt trong trang sách đều mang theo vì vết chém của Nguyên. Nào thi sĩ Đạm, nào T.T. Hoàng, v.v. trong đoạn kết của cuốn sách với những cái tát cuối cùng và những lời sỉ nhục quá đáng! Thế Phong đã dùng hết sức mình để công phá lần chót, trả thù đời! Khi viết lại thân phận qua những gian truân, oán hận, Thế Phong không dằn được cái "váng nổi của ý thức" khi còn trẻ nên đã nói hết, viết hết những gì chứa chấp trong tâm tư, mặc kệ hậu quả. Câu mà thi sĩ Đạm nói ra: "Tất cả đều sợ anh" trong buổi tối Nguyên đánh Hoàng vì đã nói xấu mình khi vắng mặt, là như thế đó! 

Cuốn sách tạm ngưng với vài lời cám ơn bạn bề, dù tốt dù phản phúc, nhưng họ đã cho nhà văn cái vốn sống để hoàn thành sự nghiệp. 
Thế Phong luôn luôn khát vọng và mơ ước mình sẽ trở thành một Maxime Gorki Việt Nam [Maxime Gorki (1968-1936), sinh tại Nijni-Novgorod, một thành phố nằm ở ngã ba sông Volga và Oka. Thành phố có bến tàu lớn, cũng là trung tâm kỹ nghệ thép, xe hơi và cơ xưởng lọc dầu. Những tác phẩm nổi tiếng hoàn cầu như Tuổi thơ ấu của tôi (Ma vie d’enfant), Những kẻ lang thang (Les vagabonds), Người mẹ (La mère), v.v. đều được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng và nhà nước miền Bắc cũng đã dịch ra Việt ngữ]. Thân thế và cuộc đời của Gorki cũng đã gánh chịu vô vàn tủi nhục, hận thù giai cấp tư bản, phong kiến, nên ông dấn thân vào Cách mạng Vô sản, dùng văn chương để trình bày cái xấu xa của xã hội thoái hoá, bóc lột, đề cao những tấm lòng vàng trong manh áo rách. Gorki đã khích động căm thù và dương danh vai trò vô sản trong mọi tác phẩm. Ông cũng đóng góp rất nhiều cho cuộc Cách mạng Nga tháng 10-1917. Do đó, ông được Nhà nước Liên Xô tôn xưng là đại anh hùng văn nghệ vô sản. Hoàn cảnh Việt Nam khác, dĩ nhiên, ước mơ lại càng khác nữa! 
Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời là sự nối tiếp những trang đời của tác giả. Ở Nửa đường đi xuống, Thế Phong còn nguỵ tạo danh tính các nhân vật được đề cập tới, nhưng ở cuốn Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, nhà văn đã cho người đọc biết tên thật của mỗi vai trò. Có nhiều chuyện được nhắc lại trong Nửa đường đi xuống với nhiều chi tiết hơn, những chi tiết nhức nhối làm chết sững lòng người. 
Người con gái làm thơ: Cao Mỵ Nhân, đã cho Thế Phong nguồn đam mê tình ái và làm khổ nhà văn không ít trong suy nghĩ. Cuộc tình đằng đẵng, có lẽ sâu đậm nhất, sau mối tình vô vọng với nữ sĩ Linh Bảo. Tất cả nguồn cảm hứng sáng tạo trong thời gian này dành cho Cao Mỵ Nhân. Cuộc sống của Thế Phong vẫn chưa tìm thấy chân trời. Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến in ronéo, lấy số kiểm duyệt mà vẫn ra đời với nợ nần và thiếu thốn. Trong khi đó sách bán rất chạy dù in lèm nhèm vì kỹ thuật ấn loát kém.


Vừa lo sống, vừa lo công việc nghệ thuật, vừa lo yêu, lúc nào ngần ấy thứ cũng đeo đẳng vào số phận nhà văn để hành hạ. Anh em, người này đi, người khác đến, cả những khuôn mặt đàn bà cũng vậy, như nàng Oanh – người tình cũ, gặp lại ở một trường hợp đặc biệt. Oanh đã tự tử không chết, bỏ chồng. Oanh đòi làm lại cuộc đời với Thế Phong, trong khi đó tình yêu với Cao Mỵ Nhân đang nồng nàn. Nhưng Thế Phong vẫn cùng Oanh đi Vũng Tàu, rồi những trận tình làm Oanh mang bầu. Nhà văn trốn tránh trách nhiệm bằng cách đổi chỗ ở. Đến Tết gặp nhau, Thế Phong đã chán, xô nàng xuống đường!… 
Thế Phong viết lại rất lạnh lùng, tàn nhẫn. Mỗi dữ kiện được nhắc tới bao giờ cũng gói ghém trọn vẹn hai chữ: thù hận, không phải với cá nhân mà với cuộc đời. Thế Phong mê mải làm việc, có thể ngồi cả tháng trước máy chữ, đánh bản thảo trên giấy sáp để in ronéo. Sự thực, trong dòng sống, Thế Phong cũng có một chuyện tình chua xót với một người đàn bà goá gặp gỡ giữa đường. Người con gái này đã có con gái lớn, và hết lòng chung thuỷ với người chết, nhưng đốm lửa nên duyên, để rồi ân hận đến khi nhắm mắt! Trong đêm vắng, Thế Phong muốn thử xem người đàn bà bốn mươi, đáng tuổi chị mình đó, thờ chồng đến mức nào? Nhưng hỡi ơi! Con người đâu phải thần thánh, làm sao chống nổi được với đam mê thân xác, bên cạnh một chàng trai khoẻ mạnh. Thế rồi sau đêm hoan lạc đó, bà ta ở luôn. Biết cần phải có chồng mới sống chung được, bà bảo tác giả đưa tiền mua cỗ bài tây, để bà hành nghề bói bài kiếm ăn. Thế Phong đi vay tiền cho bà. Từ đó ngày ngày bà kiếm tiền nuôi hai miệng ăn bằng cỗ bài. Nhưng một buổi, bà không quay về nữa, tác giả biết bà bị cảnh sát bắt vì một tội gì đó, nên đã xúc động sáng tác bài thơ Cửa mở đón em về: 

… Nửa đêm anh ôm suốt vòng lưng tưởng tượng, 
Đêm không đèn mở cửa đón em về… 
(Sai biệt) 
Rồi một tối, bà trở lại cho biết, bị giam ở khám Chí Hoà, báo tin mình đã mang thai, mang thai sau bao năm thờ chồng! Nhà văn sợ quá, chợt nghĩ đến chị Năm Hưởng với hộp Hépatrol, bèn tìm cách tháo chạy. Chạy bà goá chửa xong, nàng Oanh lại sinh nở. Tác giả muốn giúp Oanh có chút tiền nằm ổ, biết vay không được, lại ăn cắp của bạn cùng nhà đem cho Oanh ở bệnh viện Hùng Vương. Chuyện vỡ lỡ, Thế Phong lên đường tìm chỗ khác trú ngụ. Chuyện ăn cắp còn đến với người bạn tốt, thấy nhà văn không có chỗ ngủ, mời đến nhà mình. Nửa đêm, nhà văn móc túi quần, mở ví lấy hết tiền rồi chuồn sớm, cũng chỉ vì quá túng quẫn. 
Tất cả tác phẩm in Ronéo trong những năm 60, 61, 62 và 63 đều có ý hướng chống chính quyền, nhất là tập Mây Hà Nội của Nhị Nhu, hay tập Vô cùng của Đào Minh Lượng. Rồi đến chuyện gây gổ với Nguyên Sa, Hoàng Trọng Miên, Mặc Đỗ, Đỗ Tấn, Nguyễn Văn Trung, Vũ Khắc Khoan, v.v. Thế Phong đã nói hết trong tác phẩm này (Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời). Nhưng chưa hết, còn nhiều khuôn mặt nữa, toàn những khuôn mặt anh em và đôi ba người tuy không làm văn nghệ nhưng dùng văn nghệ để phục vụ cho mình như Phạm Xuân Thái, Lý Trung Dung – Chủ tịch Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá. Ngay cả khuôn mặt Nguyễn Đức Quỳnh thuộc nhóm Hàn Thuyên, Hà Nội, người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến mà Thế Phong đã nhiều lần tham dự cũng bị kết tội làm mật thám cho Pháp, trong cuốn Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh. Còn nhiều, nhiều nữa, cả đàn bà lẫn đàn ông, mỗi người được Thế Phong đeo cho chiếc thẻ bài với dòng chữ số!…Mối tình Cao Mỵ Nhân tuy cuối cùng cũng tan vỡ, nhưng có lẽ, mối tình đẹp nhất đời, nên Thế Phong đã làm nhiều thơ vì nàng. 
Để tỏ bày lập trường văn nghệ và cũng để kiên trì thái độ, Thế Phong viết: 

… Những ngày có dấu chân của chàng kỵ mã văn nghệ là tôi đây, quang cảnh miền Nam đã thay đổi. Tôi như là mũi tên không tha thứ một tên nào, dù có quyền hành móc sau đời sống văn nghệ, tôi cũng lao những mũi tên tẩm thuốc độc cảnh cáo hoặc khử trừ. Những tên làm xấu văn nghệ, đạo văn, mật vụ, chúng phải nghĩ tới đối tượng tôi, trước khi bắt tay vào việc. Có thể ghét bỏ tôi, nhưng chung quy phải nể và kính trọng tôi. Tôi đòi phải thừa nhận lỗi lầm, nhơ nhớp của họ, mới có căn để tránh và sửa chữa tội lỗi… 
(Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, trang 199) 
Những dòng trên, có chủ quan lắm không? Với tuổi trẻ cái gì cũng có thể đúng, ngay cả mặt trời kia, nếu nổ vỡ và nhiệt độ rớt xuống có làm cháy tan trái đất này, họ cũng coi như chuyện thường, vì họ không có gì để mất, ngoài tự ái! Nhưng rồi thời gian và tuổi đời chín dần, họ mới thấy, mới nhận biết, văn nghệ hay gì gì nữa cũng là thừa cả trước vũ trụ. Lão Tử đã nhìn rõ, nên mới cất lên hai chữ: Vô Vi. 
Phải nhận rằng, Thế Phong rất yêu nghề, nguyện sống chết với nghiệp. Dù gặp bao nhiêu khốn khó, dù đói cơm rách áo, dù tình yêu tội lỗi quây chặt tâm hồn, dù đời có phụ rẫy, dù bạn bè tốt xấu, dù mình có hư đốn, nhưng không bao giờ Thế Phong xao lãng văn nghệ, thứ "văn nghệ đắng" không nuôi sống mình. Thế Phong viết ra những cái xấu của bản thân, của xã hội để ghi dấu khoảng đời, chuỗi thời gian góp mặt. Công việc nghĩ rằng dễ, nhưng thực khó. 
Đã có lúc, nhà văn muốn tự huỷ đời sống của mình trong những ngày ở Tân Sa Châu vì quá tuyệt vọng! Nhưng với tuổi trẻ và được trời phú cho sức chịu đựng, Thế Phong đã vượt thoát, dù vượt thoát với ngàn vạn cay đắng, nhục nhằn!… 
Ngoài hai tác phẩm tự-sự-kể: Nửa đường đi xuống, Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, được ghi nhận như những bài học đắt giá của đời sống văn nghệ, Thế Phong còn dùng văn chương để nói về đời sống tình cảm của một nữ văn sĩ nổi tiếng từ thời tiền chiến. Để tránh những khó khăn về kỹ thuật dựng nhân-vật-truyện, Thế Phong phải dùng lời nói đầu trong cuốn: Truyện của người tình phụ (1963) như sau: 

Đây chỉ là một thể hiện cuộc đời qua tiểu thuyết mà xã hội cỏn con ấy không liên hệ gì, hoặc xa, gần với đời sống một cá nhân nào trong xã hội thực. Nói như thế, tác giả không trách nhiệm, biện giải, khi có ai muốn thể hiện tiểu thuyết này là có sự liên hệ đến họ. 
Câu trên, thực tình, viết ra để có viết mà chẳng viết gì cả. Câu chuyện tình của người đàn bà có chút học vấn, vì gia đình hay duyên nợ (?) phải lấy anh chồng nhà quê không ưng ý, gặp người đàn ông hơn thế, mê liền, bỏ chồng đi theo, để rồi lại mê nữa, người thứ ba, thứ tư… Sự mê đắm một phần do nhục thể, một phần vì những hào quang sự nghiệp văn hoá và chính trị do người đàn ông toả ra. Cái tâm trạng đứng núi này trông núi nọ, rốt cuộc, ngọn núi nào lúc đến gần cũng ngần ấy thứ xấu xa, ghê tởm làm cả cuộc đời tan nát trong đam mê, ước vọng! Toàn bộ cuốn truyện không mấy xuất sắc, vì tình tiết cũng như cốt truyện không nằm ở môi trường chung của mọi thành phần xã hội, nó là ngoại lệ, nên chỉ có thể gây xúc động ở một vài tâm sự đồng cảnh ngộ nào đó. Hơn nữa, các sự kiện nói tới, được tiểu-thuyết-hoá quá độ trở thành giả tạo. Nghệ thuật một khi giả tạo, khó gây ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người đọc. 
Thế Phong, nhà văn có khuynh hướng xã hội. Những cảnh sống khốn cùng của một lớp người chỉ trông vào "đồ thừa" của quân đội Mỹ thải ra, cũng đủ nuôi sống một cách phong lưu cả gia đình. Những thân phận con người ngoại ô. Những thảm trạng xã hội, ở đấy, chỉ vì chút lợi lộc, con người có thể căm thù nhau mãn kiếp, có thể hy sinh luôn danh dự cũng như thể xác để đánh đổi lấy quyền lợi, dù quyền lợi nằm trong đống rác nhơ bẩn, thối tha. Truyện Khu rác ngoại thành được viết bằng nước mắt, bằng nỗi nghẹn ngào, trong mỗi trạng huống được đề cập tới. Phải xác nhận, từ ngày có sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Việt Nam, sinh hoạt của thành phố đã thay đổi theo mức độ đáng ngại. Các "bar" mọc lên tua tủa và ổ mãi dâm lan tràn trong mọi ngõ ngách, ngay cả trung tâm thành phố. Giá sinh hoạt tăng vùn vụt, do đó, muốn sống còn, bắt buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải kiếm thêm bằng mọi cách. Truyện Khu rác ngoại thành với đống rác cao như núi, với những ti tiện, bỉ ổi trong vấn đề giành mối lợi, cái mối lợi do quân đội Mỹ vứt đi được viết ra với những tình tiết vô cùng cảm động. Hình ảnh người lính không quân tên Tiết với những anh "di-ai" Mỹ và vợ Tiết, gái điếm hoàn lương cùng nhiều vóc dáng khác quay tròn xung quanh đồng tiền làm người đọc chóng mặt: 

… Tôi nhớ lại, những buổi tối mấy người Mỹ đến nhà Tiết chơi. Mỗi lần nhìn thấy taxi đậu trước cửa, vợ Tiết sai thằng con đem tiền ra trả, cho rằng cử chỉ đó là một thái độ chiều chuộng. Sau đó chị thường đem chuyện người Mỹ đến nhà chị chơi ra sao kể lại với hàng xóm, coi như đó là một vinh dự và lên mặt với mọi người. Năm gian nhà khu chúng tôi không rào giậu gì, bếp nước chung nhau một gian phụ nằm dài sau dãy nhà chính. Giấy má, rác rưởi vứt lung tung. Một buổi tối đun nước, vơ giấy nhóm bếp, thấy có bản nháp một lá thư viết bằng tiếng Anh. Tò mò tôi đọc. Nội dung lá thư đại khái như thế này: 
Bạn không phải mua quà tặng vợ tôi làm gì. Tôi chỉ muốn phiền bạn mua giúp tôi 50 tút Pall Mall, Lucky, Salem và 20 hộp thuốc píp 79. Noel năm nay tôi sẽ dẫn bạn tới một chỗ tuyệt thú. Con gái Việt Nam đẹp lắm! 
Tối nay chở bạn ở nhà tôi. 
Thân kính 
Tiết 
(Khu rác ngoại thành, trang 20) 
Tiết tuy làm lính nhưng ăn mặc "luých" như một thứ công tử miền Nam giàu gốc. Trong nhà có đủ thứ sang trọng của một gia đình sung túc, nào nho, cam, đào hộp, thịt bò, bánh, kem, kẹo, cà phê, chocolate, xà bông bột, v.v. Nhưng vì miếng ăn, cái "đống rác" ấy lục đục với nhau: 

… Xe ngoại kiều càng ngày càng đổ nhiều vỏ đạn rốc-kết, những thùng đạn đôi khi còn nguyên. Bọn Tàu đi mua đạn để lấy đồng với giá rẻ mạt. Bác Chánh bắt đầu làm đơn khiếu nại nhưng không cho tôi biết, khác hẳn với mọi lần, mỗi khi làm việc gì bác cũng thăm dò ý kiến tôi trước. Chủ căn nhà A (tức bác Chánh) khiếu nại rằng, đổ rác làm mất vệ sinh. Tôi chắc Trần có đóng góp vào việc thảo lá đơn này. Trong khi đó, ở một mặt khác, tôi được biết Trần cũng làm đơn tố cáo với Toà Đại Sứ, cơ quan quân sự Mỹ về việc xe ngoại kiều đi đổ rác được Tiết ve vãn, cho tiền, dẫn gái, nên đem đi đổ toàn những đồ nhà binh còn dùng được. 
Tôi thấy không cần phải đóng góp thêm một ý kiến nào. 
(Khu rác ngoại thành, trang 26) 
Rồi cũng quanh đống rác, người ta chửi nhau, đánh nhau, thưa kiện để giết chết nguồn sống của nhau. Tiết đã bị quân cảnh bắt giữ vì dính líu vào vụ rác Mỹ. Trong khi Tiết bị hoạn nạn, ở nhà vợ Tiết lao đầu vào tội lỗi: 

… Bây giờ không phải là mùa xuân nữa, mặc dầu chưa hết tháng Hai âm lịch. Thằng bé càng hát lớn, con bé càng khóc to hơn. Rồi thằng bé lại hát bài quốc ca để ru cháu nữa. Nhịp đi hùng mạnh của đoàn quân hình như đã không thể làm cho đứa bé hài lòng. Gần sáng mẹ nó mới trở về. Xóm lao động ở bìa rừng cao su, anh Bẩy loan tin về chuyện thực xảy ra đêm qua trong rừng "ái ân": 
"Vợ thằng Tiết đêm qua cặp kè với ngoại kiều suốt sáng ở chiếc mả cũ trong rừng. Đ.m. thằng chồng mới bị bắt có ít bữa mà làm vậy rồi. Đồ chó điếm mà, bọn bay! Con đó trước làm điếm ở xóm Lăng, gái chơi bời mà!" 
(Khu rác ngoại thành, trang 36) 
Vợ Tiết, người đàn bà lai Tàu đã dày dạn tình đời, bướng bỉnh thừa nhận: 

"… Đ.m. tụi bay. Tao không có tiền, tao nghèo, tao "đi" cho Mỹ. Bọn bay thối miệng học làm chi đây. Đ.m. tụi bay, chồng tao bị bắt tụi bay sướng ghê!" 
Đời sống cứ tiếp tục chiều quay của nó. Những vui buồn cũng trở thành tầm thường như mưa nắng. Tác giả vẫn phải nhìn ngần ấy sự việc trong khuôn khổ đống rác và sự tàn nhẫn của chính mình khi không thích con chó khôn ngoan, yêu quý, đi lang thang kiếm ăn, tìm đực. Con vật bé mọn, bị quất một cây gậy lớn đến truỵ thai. Từ đó, nó ốm đau lê lết. Tác giả muốn mua thuốc cho nó mà không tiền vì thân mình còn phải ăn nhờ bác Chánh nên đã bi phẫn than rằng: Đời sống khốn nạn này không cho phép tôi làm để tự kiếm đủ miếng sống cho chính bản thân và một con chó! … 
Trong tầng trời hoàn cảnh và trường hợp nào, hễ Thế Phong dấn thân vào đều bị bao phủ bởi những oán thù, bất mãn. Oán thù những luật lệ xã hội và bất mãn với thân phận làm người. 
Tập truyện Khu rác ngoại thành gồm 3 truyện ngắn, mỗi truyện đều khuấy động tự đáy tâm tư những dằn vặt, đau đớn chẳng phải cho bản thân tác giả mà còn cho xã hội. Từ khuôn mặt Thu, người đàn bà xứ Huế, vợ bạn, đã nhiều đêm nhà văn muốn mở cửa ngang lẻn sang buồng nàng để tỏ tình, trong lúc người chồng đi làm xa, đến người đàn bà xứ Quảng lặn lội vào Sài Gòn tìm việc làm tôi tớ, việc không tìm được, lại tìm đúng anh thanh niên lãng tử, để Một đêm dài tình ái xảy ra. Người đàn bà xứ Quảng cũng thuộc nòi tình, nên "điều ấy" được nói ra một cách bình thản: "Có thiệt chi đâu anh, tôi và anh đều buồn về cuộc đời cả mà. Ngủ với nhau nói chuyện cho vui. Nhất là đêm nay trời lại mưa lâm râm…" Câu nói như đưa Thế Phong vào khung trời ước muốn, như kẻ đang đi giữa sa mạc gặp hố nước, gục đầu uống no nê. Tuy cái hố nước ấy đã có người uống trước, nhưng đấy không phải điều hệ trọng, cái hệ trọng là người đàn bà đã biết rõ cuộc tình này chỉ là chuyện tạm bợ, nên vui vẻ chia tay, chỉ xin được địa chỉ thật, để có mang thai, sinh con trai sẽ báo tin chung sống lâu dài, nếu hoàn cảnh cho phép. 
Trong những câu chuyện nhà văn kể ra, viết ra, đều ẩn nấp trong dó những ý nghĩ chống đối, những chua chát não nề dù đã được nguỵ trang bằng đam mê nhục dục. Những chữ, những câu dùng để tự sỉ vả, buồn thay, nó lại là những lời nguyền rủa một xã hội, một chế độ, một thế hệ vì những thứ ấy đã tạo cho tác giả trở nên như thế, trở thành như thế! 
Thế Phong viết rất nhiều truyện ngắn. Mỗi truyện trình bày một nhức mỏi về cuộc đời, dù ân tình hay thất vọng. Từng vết roi do cuộc đời quất vào mặt, Thế Phong nghiến răng chịu đựng rồi trả thù bằng ngôn ngữ. Nhà văn không tạo ra cuộc sống hoặc dùng cuộc sống như điểm tựa, nhưng đích thực, Thế Phong đã ném vào cuộc sống những vốc bùn vì cuộc sống, đối với nhà văn như một địa ngục. Đi suốt cả một đời thanh niên, tìm không thấy lý tưởng, Thế Phong uất hận viết thành thơ: 

… Chợt nhớ rằng tổ quốc tôi đang lầm than nên trời Sài Gòn quanh năm không cần áo ấm, kiếm miếng sống đợi chờ trong đống rác ngoại nhân. Tôi đứng bên tiềm thức Ngã Tư Bảy Hiền, thấy trẻ con lớn lên bằng những miếng bánh mì còn sót và quà đứa anh tặng em, miếng sô-cô-la lượm… 
(Thế Phong, tác phẩm và cuộc đời, trang 360) 
Bị ám ảnh, vây hãm quá lâu trong túng thiếu, căm phẫn nên mỗi dòng, dù thơ hay văn cũng gói ghém trọn vẹn những đối kháng tự thâm tâm của một con người đã có quá khứ. 
Tác phẩm của Thế Phong còn được dịch sang Anh ngữ, phổ biến ở ngoại quốc và đăng tải trong tờ Tenggara (Mã Lai) như: Viet Nam Under Fire and Flames (Việt Nam trong khói lửa, thơ); South Viet Nam, The Baby in the Arms of the Américan Nurse (Miền Nam, đứa nhỏ trong tay cô y tá Mỹ, thơ); Thế Phong by Thế Phong (tự sự kể), Asian Morning Western Music (Sáng, Á Đông, Nhạc Tây phương, thơ), với lời tựa của Giáo sư Llyood Fernando. 
Phải chăng, Thế Phong đã mang hình ảnh một Don Quichotte, chàng hiệp sĩ lang thang có gương mặt trầm buồn, đánh nhau điên cuồng với những chiếc cối xay gió trên khắp nẻo đường phiêu bạt, nhân vật điển hình trong Don Quichotte de la Manche, cuốn tiểu thuyết triết lý và châm biếm bất hủ của đại văn hào Tây Ban Nha, Miguel de Cervantès (1547-1614). Nhưng tiếc thay, không có Sancho Panca tượng trưng cho ý thức, hiện diện ở đằng sau hay bên cạnh. 


ảnh trên : Nhà văn THẾ PHONG
ký họa của TẠ TỴ








Trò chuyện cùng nhà văn Thế Phong.

Ban Mai


Lần đầu tiên tôi biết nhà văn Thế Phong cách đây hơn 6 năm khi đọc truyện ngắn “Thủy và T6” đăng trên tạp chí Hợp Lưu số 82, năm 2005. Với giọng văn miên man, tình tiết lôi cuốn, truyện ngắn vẽ lại xã hội Sài Gòn những năm trước 1975, tôi đọc một mạch không dứt, cuối truyện tác giả bỏ lửng khi đang hồi gay cấn, với lời ghi chú (…tạm ngưng nơi đây…). Tò mò đoạn kết, tôi liên hệ tạp chí Hợp Lưu phần tiếp theo và được trả lời, chỉ thấy có văn bản này từ chồng sách cũ, tạp chí không liên hệ được tác giả, nên không biết Thế Phong đang sống ở đâu… và rồi theo thời gian tôi quên ông.

Tình cờ, tác giả Trần Hoài Anh gửi tặng tôi cuốn “Lý luận phê bình văn học ở đô thị Miền Nam 1954-1975” xuất bản năm 2009, cuốn sách viết lại từ luận án tiến sĩ của anh. Tôi thật vui vì biết rằng Văn học Miền Nam“đã không chết” trong các trường học. Hiện nay, đề tài văn học Miền Namđang là “thời thượng” mà giới nghiên cứu sinh, cao học trong nước ra sức tìm kiếm, thay thế những đề tài quá cũ và sáo mòn. Anh kể tôi nghe quá trình đi tìm tài liệu Văn học Miền Nam để viết luận án, anh

được nhà văn Thế Phong cung cấp nhiều tài liệu trước năm 1975. Tôi ngạc nhiên, nhà văn Thế Phong trong “Thủy và T6” còn sống sao? Thế là tôi có địa chỉ của Thế Phong và liên lạc với ông... Sau đó, tôi nhận được truyện ngắn của ông gửi qua đường bưu điện, nhưng cuối cùng tôi mới biết thì ra đoạn cuối ( …tạm ngưng nơi đây…) như vậy là hết…tác giả bỏ lửng không viết tiếp làm người đọc ngộ nhận cứ dài cổ đợi chờ.

Tìm lại một nhà văn Miền Nam cũ, có nhiều hiểu biết về giới văn chương Việt Nam trước 1975, với một người “hậu sinh” như tôi là niềm hạnh phúc. Nhà văn Thế Phong rất hào phóng và ưu ái gửi tặng tôi 12 cuốn sách cũ trong tủ sách gia đình ông.

Thế Phong tên thật Đỗ Mạnh Tường, sinh ngày 10-7-1932 tại Yên Bái. Năm 1952 ông in Truyện ngắn đầu tiên “Đời học sinh” với bút hiệu Tương Huyền đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hà Nội. Truyện dài đầu tiên “Tình sơn nữ”, in ở Sài Gòn năm 1954, ngay khi vừa đặt chân vào Nam. Trước đó, ông là cộng tác viên với các Nhật báo ở Hà Nội như: Tia sáng, Giang Sơn, Thân Dân, Dân Chủ, Mạch Sống. Sau 1954 ông cộng tác với các tờ báo ở Sài Gòn: Đời Mới, Nguồn sống mới, Văn nghệ tập san, Văn hóa Á châu, Tân Dân, Tạp chí Sống, Sinh Lực, Tuần báo Đời, Trình bầy, Tiền tuyến, Sóng thần, Lý tưởng.v.v…Đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique (Paris 12-1970). Đăng thơ trên tạp chí Tenggara, Kula Lumpur-Malaysia (từ 1968-1972).

Thế Phong là nhà văn viết đủ thế loại. Đến nay, ông đã sáng tác trên 50 tác phẩm: thơ, truyện, phê bình, khảo luận, dịch thuật. Bàn về thơ Thế Phong, nhà thơ Bùi Giáng từng viết: “Thế Phong hùng hậu, ngang tàng, bướng bỉnh, khó tính. Bài thơ đi ào ào, lúc chan hòa tâm sự, lúc cộc lốc phiêu nhiên. Thơ cảm động vô cùng mà cũng lắm phen khiến người ta cười bật thành tiếng. Thơ của ông Thế Phong là chỗ kết tụ của một tâm hồn tế nhị khôn hàn và nỗi gàn bướng khó tả. Ông làm giàu cho thi ca hiện đại không phải là ít”. (NXB Ca Dao, Sài Gòn 1969).

Thơ Thế Phong mang chất bất cần đời, đôi lúc sỗ sàng, tàn nhẫn, văn ông ngược lại phóng khoáng, mượt mà, những nhận định về con người trong các tiểu luận đầy chất chiêm nghiệm, có lúc rất độc mang tính võ đoán nhưng thẳng thắn. Ông là một trong những nhà văn Miền Nam kỳ cựu hiện còn sống tại Sài Gòn. Để hiểu rỏ sinh hoạt văn chương MiềnNam và tình hình giới văn nghệ trước và sau năm 1975, tôi mời ông trò chuyện.



Ban Mai: Thưa nhà văn Thế Phong, được biết ông là một trong những nhà văn Miền Nam hiện còn sống ở Sài gòn và có những khảo cứu công phu về Văn học Việt Nam như những cuốn: Lược sử Văn Nghệ Việt Nam, Tổng luận sáu mươi năm Văn Nghệ Việt Nam 1900-1956, Hiện tình Văn nghệ Miền Nam 1957 – 1962; vậy ông có thể cho biết sinh hoạt văn chương miền Nam trước năm 1975 ra sao? Từ các khuynh hướng nghệ thuật chính, đời sống văn nghệ đến kiểm duyệt ?

Thế Phong: - ...Cô Ban Mai ơi , ( cứ cho tôi xưng hô thân mật cùng đọc giả, lần đầu gọi điện thoại, hỏi truyện ngắn" Thủy và T6", đăng trên"Hợp Lưu" ( Hoa Kỳ) hiện còn sống ở Sài Gòn, thật sao?!) ...mới nghe xong, sao nó ngậm ngùi vậy?! Quả tôi đã già thật ,78 tuổi rồi - chứ không còn tự biện bạch" ta chưa già nhưng đà lớn tuổi" (nói theo tác giả" Chết Non") đặt câu hỏi vậy- buộc tôi phải giải thích những cuốn sách trên- thực ra chỉ là bốn tập trong bộ" Lược sử văn nghệ Việtnam ": a) Nhà văn tiền chiến: 1930-1945, b) Nhà văn kháng chiến chủ lực : 1950-1945 + Nhà văn miền Nam : 1945-1950, c) Nhà văn hậu chiến : 1950 -1956

( Quốc gia V.N & miền Nam + Việt Nam Cọng Hòa), d) Tổng luận 60 năm văn nghệ Viêtnam: 1900-1956". Riệng tập " Hiện tình văn nghệ miền Nam: 1957-1962 " ( Đại nam văn hiến, Saigon 1962) được coi như PHỤ LỤC - khi Newvietart.com ( Pháp) đăng tải lại - được ghép vào, để soi sáng nền văn học miền Nam 5 năm tiếp theo thời Đệ I Cộng Hòa /Việt Nam Cộng Hòa ( Miền Nam).

Và" Tổng luận 60 năm văn nghệ Việtnam.." -được chuyển anh ngữ" A Brief Glimpse at the

Vietnamese literary scene , 1900-1956" ( Dai Nam Văn Hien Books, Saigon 1974)- hiện được nhiều mạng toàn cầu đưa lên mạng, dạng "ebook" : như Amazon.com, Theis, Booknear, Open Library beta, get CITED, vv..:

-Amazon.com : Vietnamese Literature: Books - A Brief Glimpse at the Vietnamese ( Oral) Literature: Mythology, Tales, Folklore by Loc... Vietnamese Literature: A Brief ( Survey) - by Nguyen Dinh Hoa(Paperback- 1994)

www.amazon.com / s?ie UTF8 books & field - keywords Vietnamese % 20 Literture & page- 1-

160k- Cached Similar pages.


-Cần nói rõ thêm, giáo sư NĐH ( soạn giả "Vietnamese -English Dictionary," Charles E. Tuttle CO. : Publishers, Tokyo, Japan 1969- bản tôi có ,ghi: Eleventh printing, 1969/ Copyright in Japan, 1966 by Charles Tuttle Company, Inc.) Giáo sư này đã cặp nách " A Brief Glimpse at.... " đi thuyết giảng tại các đại học Huê Kỳ, trong năm 1994 , rồi tự in ấn, phát hành bất hợp pháp. Rồi, Thư viện Úc đã mua được 1 tập:

- Nguồn" : A brief Glimpse at the Vietnamese literary scene, 1900-1956/ The...

Available in the National Library of Australia Collection. Author ThePhong, 1932. Format, 42p.;
27cm.

-Tôi gửi thư nhờ dịch giả Đàm Xuân Cận (hiện ở Cabramatta,Australia), đặt mua một tập , thì được trả lời: ".... Dear Dam Xuan Can / Thank you for your letter to the Director of the National of Australia dated 7 April 2009, enquiring about obtaining a photocopy of the book " A Brief Glimpse at the Vietnamese Literary Scene" from the Nationall Library. According to Australia Copyright Law, we are not permitted to provide you with a photocopy of the book because the book is still in copyright..." ( Letter dated 15 April, 2009- from Anna Xu/ National Library ofAustralia / Canberra ACT 2600 / Email: axu@nla.gov.au ) 

- Tuy vậy, họ cũng gửi một bản tới thư viện ở Cabramatta cho dịch giả- và anh Đàm Xuân Cận mượn về đọc, rồi tự copy một bản gửi cho tác giả .

- Câu hỏi tiếp theo" ...có thể cho biết sinh hoạt văn chương miền Nam trước 1975 ra sao? Từ các khuynh hướng nghệ thuật chính, đời sống văn nghệ đến kiểm duyệt ?

- Rất tình cờ câu hỏi được đặt ra- " hay thì thật là hay.." , nhưng , tôi đã viết hết trong" Hiện tình văn nghệ miền Nam: 1957-1962" rồi. Ai" khứng " theo dõi, xin mời vào : <Google/ Search/ nhà văn thế phong >,< Google/ Search/ thế phong>,< Google/ Search/ Thephong writer>. Riêng tôi, hẳn không thể làm thêm" việc bắt voi bỏ giọ" một lần nữa. Chỉ nhớ một chi tiết " vấn đề kiểm duyệt" thời Việt nam Cộng hòa- tôi đã là một" lớn đầu bậc nhất tội đồ" của Sở Phối Hợp Nghệ Thuật ( tức Sở kiềm duyệt) của Bộ Thông Tin VNCH.

Ban Mai: Vậy cuộc sống của các nhà văn Miền Nam như thế nào trước tình hình chiến sự ngày 30 tháng 4 năm 1975, những ngày sau cùng, và rồi sau tuyên bố đầu hàng của Dương văn Minh, họ có lo lắng và suy nghĩ gì?

Thế Phong: Tôi chỉ nói riêng về gia đình chúng tôi . Từ Khu Gia binh Không quân ở Tân Sơn Nhất ra ở nhờ chị họ, tại 13 Trần Khắc Chân, Tân Định một tuần; sau chuyển sang căn nhà ở 118/ 12 Trần Khắc Chân Tân Định- Nhà có gác lửng bỏ không , anh Đàm Xuân Cận cho ở nhờ. Bắt đầu, kiếm miếng sống độ nhật - sắm một tủ kiếng nhỏ, mua bánh bông lan về bán lẻ- đầu tiên ngồi trước ngõ 27 Trần Khắc Chân, bán ế, chuyển ra trước chợ Tân Định. Một thời gian sau, tôi đi làm" lơ" xe thực thụ, tuyến xe buýt Thủ Đức-Saigon- còn vợ con bán nón, ngồi trước cửa Trường Bà Sơ Thiên Phước (chị nuôi- ca sĩ cổ nhạc Lệ Liễu, trưởng ban cổ nhạc Đài Saigon mua buôn mũ, nón- bỏ mối , bán trước, trả tiền sau theo lối trả " gối đầu". Rồi tôi trở thành công nhân viên chức Công ty Xe Khách Thành, từng" kinh qua” phụ xe, nhân viên an toàn giao thông, bảo vệ điều độ- năm 1992 tôi xin" hưu non" , lãnh tiền một lần.

- Mời đọc trích đoạn " Hồi ký ngoài văn chương" / Thế Phong ( Nxb Văn Nghệ- California, USA xb

năm 1995) phản ảnh " cuộc sống nhà văn miền Nam" khi ấy.

Ban Mai: Ông có thể cho biết, sau tháng 4 năm 1975 khi chấm dứt chiến tranh, với chính sách sai lầm “đốt sạch tàn dư chế độ Mỹ-Ngụy” các nhà văn Miền Nam đã có những năm tháng như thế nào? Chuyện gì đã xảy ra đối với ông, bạn bè ông?

Thế Phong: Đầu tiên, Nhà sách Khai Trí lớn bậc nhất của Saigon, bị đốt sách, sau nhà bị Quân Quản tịch thâu. Chủ nhà sách Khai Trí, theo tôi biết, có tới 3 , 4 căn nhà lớn - 2 ở đường Lê Lợi, kho sách ở gần rạp Cathay, một ở trên đường Pasteur vv.. Ông nằm chung danh sách" đi học tập cải tạo" , khi được thả về, ông được con bảo lãnh sang Mỹ, lại quay trở về Saigon, đem theo một số sách , báo ( khoảng 2000 cuốn)- lại bị tịch thu. Ông in một loại sách vô thưởng vô phạt, thơ tình xưa và nay, vv.. rồi chết tại quê nhà. Tôi cảm phục nhất- ông sống đời sống một người bình thường- không vì tiền của, nhà cửa bị mất mà phát" điên"!

Cô Ban Mai này, cô còn nhớ chuyện Tần Thủy Hoàng đốt sách không - rất quy mô, bạc đãi trí thức có sách vở - rồi cũng chẳng đi tới đâu- đâu cũng vào đấy cả thôi. " Như cô đặt vấn đề" đốt sách tàn dư chế độ Mỹ Ngụy" - nhờ vậy , giúp cho" sách vàng" ," nhạc vàng" sau này được bán ở các tiệm sách cũ, giá ngọt" lưỡi lam". Tôi biết một anh bán sách cũ làm giầu - anh Đức- chủ tiệm" Kỳ Thư"- chỉ bán một bộ tạp chí " Bách Khoa" khoảng trên 168 (? )số ( chủ nhiệm Lê Ngộ Châu) , cho một nhà sưu tầm Nhật bản, trả đô la, anh kiếm" bộn". Anh có rất nhiều sách cũ, ai hỏi, lập tức đến ngay chỗ đó, đưa ra. trí nhớ anh này thật siêu phàm! Một lần, tôi đi ngang qua Võ Văn Tần ( khúc đường tàu xe lửa), có ai "ới "gọi- nhìn lại là anh Đức, nhờ anh , tôi mua được 20 cuốn sách ronéo do Đại nam Văn Hiến xuất bản, sách ký tặng còn nguyên. Anh lấy giá" hữu nghị "( gần 100 usd) - mua xong, tôi dến 160 Nguyễn Đình Chiểu Q.3, leo lên gác 1, xin gặp " chủ nhiệm Bách Khoa"- không phải trách, mà nhờ anh Châu, tôi mới có một số sách làm tư liệu, sau này tái bản. 

- Tới vụ cải tạo tư sản 1978, có nhà giầu quá, đã đúc vàng thành sợi " lòi tói" để khóa ngoài cổng , cũng bị khám phá ra. Có người giấu diếm " vàng, đá quý" trong những cục gạch ở tường- chủ vượt biên, hoặc đi" kinh tế mới", nhà bán hoặc sang tên cho" cán bộ"- cán bộ phá nhà xây lại-thợ xây bỗng trở thành chủ giàu sụ. Chính hậu quả' cải tạo tư sản" nảy sinh cảnh vượt biên lớn chưa từng có trong lịch sử " một nuôi má, hai cá ăn"!

- Một số bạn văn chương được đi" cải tạo dài hạn" ( một , hoặc hơn một ), tội vượt biên, tội" biệt kích cấm bút"- điều tôi biết-, Nguyễn Thụy Long ( 1938-2009) - người viết được nhiều đoản thiên, tiểu thuyết về đề tài này: "Con chó lu bu" ( truyện thật đặc sắc, theo tôi - đã đăng báo, ở hải ngoại chưa in ra), và nhiều tác phẩm đã xuất bản ở hải ngoại: "Gác bút", "Giữa đêm trường "vv....

Ban Mai: Được biết ông là một nhà văn xuất thân trong quân chủng Không Quân VNCH, với nhiều bút ký, với tác phẩm nổi tiếng “Nửa đường đi xuống”, vậy ông có nhận xét thế nào về tác phẩm của các nhà văn quân đội Miền Bắc như Bảo Ninh, Chu Lai…?

Thế Phong: ...Tôi rất" dị ứng" với "mác" "nhà văn quân đội."Với tôi, chỉ có' nhà văn" , anh có thể làm" lính nghề"," lính quân dịch" ( bây giờ: nghĩa vụ). Anh sống trong quân ngũ, được cảm động, anh viết nhân vật sống quân ngũ. Với Bảo Ninh là " Nỗi buồn chiến tranh", tôi đã đọc, và viết cảm nhận trong" Hà Nội 40 năm xa" ( sđd.), tác giả viết rất thực về " cuộc chiến xào sáo" . Phải nói đó là cuốn tiểu thuyết" đáng được coi là tiểu thuyết hay". Đã từng được dịch sang ngoại ngữ, phổ biến nhất, là sách anh ngữ, qua tài " tai thông, mũi thính ngoại nhân" ! Sau, tôi đọc"Chuyện kể năm 2000"( nhờ anh Đắc Sơn về Hà Nội năm 2005, mua trọn bộ hai tập . xem vội "," mua chui" ở đường Thanh Niên ( Hồ Tây) " 300 ngàn đồng" ( nhà thơ Đoàn Lam Luyến giàu to!)- tôi thích hơn, đánh giá cao hơn, so " Nỗi buồn chiến tranh" đọc từ mấy năm trước. Tác giả kể lại, viết bản thảo xong, cứ gửi “bừa” tới Nxb Thanh Niên ở Hà Nội, và sau được in ra thật . ( thời kỳ giám đốc Bùi Văn Ngợi và nhà thơ Đoàn Lam Luyến" bao thầu" in ấn, phát hành). Một bộ tiểu thuyết" thật hay"! sau này, ở hải ngoại một, hai nxb đã in ra, không biết tác giả có nhận được "đồng xu, bạc cắc" bản quyền nào không- so với Tô Hoài- nhà văn" cội" , gốc Hà Nội", ẵm bộn" tác quyền sách in ra từ hải ngoại!

Tôi không hề đọc tác phẩm Chu Lai- xin miễn trả lời.

Ban Mai: Ngày nay, nước nhà đã đổi mới, cuộc sống của ông ra sao, ông có được xuất bản sách trở lại không? Những năm gần đây ông có tiếp tục viết?

Thế Phong: - Cuốn sách đầu tiên được in ra, phải nhờ" bóng, vía" , nhà thơ Trần Nhật Thu- hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ( TW) sống , làm báo ở tp HCM. Năm 1994, tôi và anh Thu ( còn được mệnh danh" giám đốc cấp giấy phép của giám đốc". Lúc nào trong cặp , anh cũng sẵn " vài " giấy phép" khống". Anh bảo tôi" anh viết xong, tôi điền tên tác phẩm vào, đưa nhà in in ngay" Thế là" T.T.Kh., Nàng là ai?" ra đời ( ký Thế Nhật- vì anh Thu viết 2 mẩu ngắn trong sách). In tại nhà in Công ty Văn hóa Quận 11, nơi này phát hành luôn. Chỉ một tuần sách in xong, 10000 ngàn cuốn, đề ở "trang Lưu chiếu" 2000 " thôi. Sách bán chạy quá, cô N.guyệt , phụ trách các quầy, sạp báo, hai cậu em vợ anh Thu làm cho Nhà phát hành Fahasa, sáng sáng" kìn kìn" chở hết bó này sang bó khác đến Nhà sách Nguyễn Huệ, Nhà sách Saigon, nhà sách Tân Định vv...(…)

Kết quả, 70 bài báo, từ TW ( viết tắt: trung ương) đến địa phương" , cả hải ngoại phản pháo" tác phẩm" đánh lừa bạn đọc" ( Tuổi trẻ) vv. và vv.. nhiều bài viết nhất, là báo Thanh Niên- hình như 2 phóng viên văn hóa tranh luận cãi nhau về cách viết bài" ủng hộ", " đả kích" NÀNG T.T.KH, suýt choảng nhau, chỉ tội" vỡ "ấm trà thì vỡ , chén thì bể "! (…)

Đến nay, tôi đã có trên dưới 10 tác phẩm tái bản ( nguyên tắc thỏa thuận với người biên tập" các anh có quyền gạch xóa, nhưng không có quyền thêm chữ, dầu là đôi ba." Những cuốn mới viết xuất bản tại Việtnam:" Hà Nội 40 năm xa" ( bút ký, nxb Thanh niên 1999, 2006), " Cuộc đời làm văn, viết báo: Tam Lang-Tôi kéo xe"( nxb Văn hóa , Hà Nội,1996- nxb Đồng Nai, 2004), " Chiêu niệm 4 nhà văn Saigon: Vũ Hoàng Chương/ Đinh Hùng/ Tam Lang-Vũ Đình Chí / Mai Lâm-Nguyễn Đắc Lộc" ( nxb Đồng Nai 1999), và 2 cuốn xb ở hải ngoại" Hồi ký ngoài văn chương" ( Đồng văn xb& Nhà sách văn nghệ, Cali, USA phát hành, năm 1995)," Thư viết ở Sài Gòn"( Văn Uyển xb, San Jose,Cali, USA 2000).

Bây giờ đã 78- " thời gian nghỉ ngơi" , sau 58 năm "thời gian viết lách"- nay chỉ viết bài ngắn, cho đăng lai rai duy nhất trên web: Newvietart.com của anh Từ Vũ chủ biên ở Pháp mà thôi.

Ban Mai: Theo ông, Hội nhà văn Việt Nam và văn nghệ sĩ miền Bắc có gì giống và khác so với Hội nhà văn Miền Nam và văn nghệ sĩ Miền Nam trước đây. Nhân cách con người, kiến thức chuyên môn, tầm ảnh hưởng của họ đối với xã hội?

Thế Phong: - Câu hỏi này "interesting ":và cũng" hắc búa" không kém. Theo tôi, Hội hè của " nhược tiểu dân tộc" đang vươn lên , dầu, có đang trở thành CON RỒNG chăng nữa - vẫn bị lệ thuộc vào đồng tiền văn hóa " bảo hộ". Ngay một nhà văn Pháp có lần kêu đồng tiền" le fétéchisme de l'argent" hoặc Lê Văn Trương viết cả một pho tiểu thuyết " Đồng tiền xiết máu ". Đồng tiền gồm hai mặt , biết sử dụng: ' tên đầy tớ tốt"; ngược lại, ' nó' là " tên chủ xấu CỦA kẻ mang " ngân ảnh". Bao nhiêu tạp chí ở miền Nam, từ " Hội Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á châu"( có tờ tạp chí" Văn hóa Á châu"- chỉ sống được, khi " ngân ảnh" từ Asia Foundation( Mỹ) rót vào- tờ" Hiện Đại" của Nguyên Sa. được viên Chánh sở ( người từng dịch sách) Sở Nghiên cứu Xã hội) gọi nôm na " Mật vụ thời TT. Ngô Đình Diệm) cấp" ngân ảnh Tổng thống Diệm", thì' sống" được trên 10 số. Chánh sở Mật Vụ Trần Kim Tuyến bị lật đổ theo Đệ I Cộng hòa, Nguyên Sa thẳng lưng nói thật" Mật vụ không cung cấp tiền nữa, báo đành" ngủm" thôi!".. Rồi" Sáng tạo" của Mai Thảo, lúc đầu được William Tucker cấp" ngân ảnh",( gài quản lý Đặng Lê Kim làm nội ứng báo cáo ) , hết" cấp" ngân ảnh , thì báo " sập tiệm". Và nhiều tờ nữa... Trở ngược về thời tiền chiến, hỏi" chủ nhiệm Phạm Quỳnh" với" Nam Phong"- chủ nhiệm đã ghi tên chánh sở mật thám Marty trên báo, hoặc các bậc tiền bối , như Nguyễn văn Vĩnh, Trương Vĩnh Ký, vv vẫn cần " ngân ảnh bà đầm xòe" phân phát để làm văn hóa đấy thôi!

Hội đoàn văn hóa, văn nghệ miền Bắc- tôi không biết, cả " nhân cách, con người kiến thức, chuyên môn, tầm ảnh hưởng của họ đối với xã hội .." - tôi lại càng không biết gì hơn - vậy thì - không thể trả lời " bừa" điều tôi mù tịt.

Tôi là một quân nhân Không quân trong Quân đội VNCH, nhưng tôi nhất định không ghi danh gia nhập Hội Nhà văn Quân Đội ( VNCH). Và tôi tâm đắc với " chân dung nhà văn Thế Phong "được" nữ thiếu tá quân nhân Quân Lực VNCH , còn là một nhà thơ -" bóc" trần trụi , qua ngòi bút Cao Mỵ Nhân (…)

Ban Mai: Ông có theo dõi văn chương của cộng đồng người Việt ở hải ngoại? ông nghĩ gì về họ?

Nhà văn Thế Phong: - ... mới đây thôi trả lời phóng viên Calitoday.com, tôi đùa: " văn chương Việt nam nối dài ư ?- vậy thì điều này, tôi nói thật lòng," không có ngày 30/4/1975, sẽ không có một số người trở thành nhà văn hải ngoại được". (…) - một số nhà văn trẻ ( nam có, nữ có) sáng tác bằng anh ngữ, tôi không có ý kiến, vì chưa đọc.

Ban Mai: Với tinh thần giao lưu, hội nhập với thế giới mà Nhà nước đang chủ trương, ông có tin ngày càng có nhiều nhà văn người Việt ở hải ngoại về nước xuất bản sách hay không?

Nhà văn Thế Phong: - Có rồi, thí dụ Trần Thiện Hiệp chẳng hạn. Hồ Trường An có nhận xét này:"... Qua ba thi tập "Cây Lá Phận Người," " Mặt Trới Lưu Vong,"" Đỉnh Mây Qua, "chúng ta thấy một điều: Trần Thiện Hiệp dù đã từng trải những thảm nạn tai ương trên quê hương , đã từng trải qua bao mệnh nước nổi trôi (...) anh còn giữ được một( ....) trái tim nhạy cảm để dựng lên một cõi thơ đẹp muôn vẻ..." ("Tác phẩm đẹp của bạn"/ Hồ Trường An - viết về Vi Khuê, Trần Thiện Hiệp, Cao Mỵ Nhân,,, vv, Cỏ Thơm xb, USA 2000 ) 

Và ngay cả Võ Phiến" …(…)… mới đây trả lới báo chí' lá ( phải) rụng về cội" cơ mà! Vậy là Nghị quyết 34 đã đi vào" hiện thực" từ lâu rồi, cô Ban Mai ạ!

Ban Mai: Cảm ơn nhà văn Thế Phong đã có cuộc trao đổi thẳng thắn như vậy. Mặc dù, vẫn biết “ văn trường là chiến trường”, thời nào cũng có những “ân oán giang hồ” của giới cầm bút. Bài viết này đã giúp thế hệ chúng tôi hiểu hơn về một thời đã qua. Tuy nhiên, thế hệ tôi muốn vượt thoát những tị hiềm cá nhân, những quan điểm chính trị, để hướng đến một nền văn chương Việt Nam lành mạnh hơn. Trong dòng lịch sử VHVN hiện đại, tôi tin rằng sẽ đến lúc trong giáo trình giảng dạy của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Phần Văn học Miền Nam Việt Nam trước 1975 và Văn học Việt Nam Hải ngoại từ 1975 đến nay sẽ được nghiên cứu nghiêm túc trong các bài viết về Tiến trình phát triển lịch sử Văn học Việt Nam trong thế kỷ XX. Cảm ơn ông về cuộc nói chuyện cởi mở này, chúc ông sức khỏe./.

Việt Nam
Ngày 07/5/2010

(Ghi chú: Bài viết này thiên về văn chương nên những thông tin mang tính chất cá nhân mà nhà văn Thế Phong trao đổi, Ban Mai xin phép không đưa vào và đã được sự đồng ý của Thế Phong. Đây là văn bản duy nhất.) 

Ban Mai






Thế Phong & Nguyễn Thị Bích Nga









Thế Phong và phu nhân








Trở về 







MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.