Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

Bút Tre (1911 - 1987)















Bút Tre

Tên thật: Đặng Văn Đăng
Bút danh khác: Lục Y Lang
(1911 - 1987) Phú Thọ
Hưởng thọ 76 tuổi

Nhà thơ dân gian, nhà báo










Thi đua ta quyết thi đua
Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi biết đi đâu
Đi đâu không biết, hàng đầu cứ đi








Bút Tre (1911–1987), tên thật Đặng Văn Đăng là một nhà thơ theo trường phái dân gian của Việt Nam thời hiện đại. Với phong cách thơ độc đáo, sáng tạo và giàu sức lan tỏa, từ bút danh của một nhà thơ, Bút Tre đã trở thành một trường phái sáng tạo thơ dân gian vui vẻ rất thịnh hành ở Việt Nam cho đến tận ngày nay. 




Nhà thơ Bút Tre

Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng, còn gọi là Đặng Văn Quang, quê xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Ông sinh năm 1911, mất năm 1987. Ông lấy bút danh là Bút Tre. Ông đỗ tú tài dưới thời Pháp thuộc, viết báo dưới thời đó với bút danh Lục Y Lang.[1]

Ông từng làm công tác ngoại giao với chức danh bí thư thứ hai sứ quán Việt Nam tại Rumani. Sau đó ông về làm Trưởng ty (bây giờ gọi là Giám đốc sở) Văn hoá Phú Thọ. Người ta nhớ Bút Tre, không phải vì những bài thơ trữ tình, cũng không vì thơ ông gần với những bài ca dao, mà vì cách làm thơ, gieo vần của ông thật bất ngờ, thường mang đến cho những người nghe sự sảng khoái sau những giờ lao động mệt nhọc căng thẳng. Câu lục bát nổi tiếng nhất mà có rất nhiều người thuộc khi nhắc đến ông là câu nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp:


Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về...

Thơ của ông rất trào phúng:

Làng ta có cái núi voi
Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi
Voi cũng hăng say đua sản xuất
Đầu thì trồng sắn đít trồng khoai.

từ đó thơ Bút Tre dân gian sáng tác thêm theo lối Hoan hô:

"Hoan hô đồng chí Hà Đăng
Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa..."

Nhiều người không gọi thơ Bút Tre là thơ. Chỉ gọi là vè. Nhưng dẫu sao, lối thơ (hay vè) của Bút Tre đã cùng tồn tại với rộng rãi người dân Việt Nam suốt nửa cuối thế kỷ 20 và có thể sẽ còn lâu hơn nữa trong cách sống lạc quan mang lại niềm vui ngày thường cho nhiều người Việt Nam. Một trong những câu sau cùng Bút Tre nhắn lại cho hậu thế là:

Mai sau kẻ đoái, người hoài, mặc 
Hạnh phúc hôm nay mát dạ người.




Thơ kiểu Bút Tre trong dân gian

Người Việt thích cách nói có vần điệu, các câu tục ngữ, các lời hát đối từ xưa đã thế. Từ một số bài của Bút Tre, người ta cười, rồi bắt chước thành một phong trào quần chúng và gán cho Bút Tre nhiều câu theo lối của Bút Tre mà một số nhà nghiên cứu gọi là lối thơ Bút tre như:

Anh đi công tác Pơ - lây -
cu dài dằng dặc biết ngày nào ra?
Còn em em vẫn ở nhà 
Cửa (nhà) mình em mở người ra kẻ vào.

Và nhiều đoạn thơ mang trường phái Bút Tre:

Liên Xô rất đỗi tự hào 
Anh Ga ga rỉn bay vào vũ tru (vũ trụ).

Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ một tuần về ngay



Thơ Bút Tre là gì?

Thơ Bút Tre là một thể thơ dân gian bắt nguồn từ ngôn ngữ khoáng đạt chốn làng quê Việt Nam; Điều khác biệt ở thể Thơ Bút Tre, là người sáng tác không phải là một tác giả cụ thể, mà là dân gian nhiều người sáng tác rồi truyền khẩu. Thơ Bút Tre là một hướng phát triển mới - Rút lấy cái cốt lõi của văn chương bác học mà trả về với hơi thở dân gian tự nhiên, chân chất mà sảng khoái. Bút Tre - Đặng Văn Đăng - người tiên phong cho một hướng đi ngược lại với văn chương hàn lâm, bác học trả lại cho văn hóa dân gian cái chân chất vốn có của ngàn năm thôn quê, mộc mạc mà dễ nhớ.




Sức lan tỏa của Thơ Bút Tre

Năm năm dân dã lắng nghe

Thơ Bút Tre đã thâm nhập vào cuộc sống, vào mọi lứa tuổi, vào mọi tầng lớp, ngày càng đậm đà, sôi động và lắm màu lắm vẻ từ nội địa tới hải ngoại.

Từ một Bút Tre – Đặng Văn Đăng đã sinh thành những Bút Tre xanh... ào ạt ra đời và mặc nhiên đã và đang hình thành một "Trường phái Bút Tre".

Thơ Bút Tre rầm rộ phát triển, đó là món ăn khoái khẩu trên bàn trà, mâm rượu, trên hội diễn văn nghệ và cả những hội nghị nghiêm túc. Có những tác giả đã sáng tác nhiều bài phát triển Thơ Bút Tre in thành tập.

Thơ Bút Tre vẫn tiếp tục được sáng tác và yêu thích. Rất nhanh, những tác phẩm xuất sắc trở thành tài sản chung, hòa vào và làm phong phú trường phái Bút Tre. Nghĩa là cha đẻ của những bài thơ Bút Tre không chỉ có Bút Tre. Thực chất Bút Tre - Đặng Văn Đăng chỉ là cha đẻ duy nhất của trường phái thơ Bút Tre. Bút Tre dân gian không thể được xem như sáng tác của những tác giả có tên cụ thể; sáng tác của dân gian mà đọng lại được là đã có sự sàng lọc ghê gớm của thời gian và về chất không kém gì, thậm chí còn hay hơn cả một số sáng tác của tác giả tên tuổi, và ngay chính cả Đặng Văn Đăng ngày còn sống khi đọc Thơ Bút Tre dân gian, cũng đã cười đến chảy nước mắt, rơi cả hàm răng giả - "Thật bái lạy dân gian"[2].

Theo Đỗ Hữu Lực (Bài Vè sĩ, Báo Tuổi trẻ): "Phong trào thơ ứng khẩu kiểu Bút Tre khi ấy ở Phú Thọ bùng lên, người ta đọc thơ kiểu Bút Tre bất cứ đâu. Thực chất không phải Bút Tre sáng tác, nhưng dân gian bắt đầu nhiễm cách nói của ông".[3]



Thi pháp của thơ Bút tre

Thi pháp gọi theo cách dân gian là lối (lối thơ)[4]

Lối vắt dòng gãy câu:
Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về

Lối viết tắt (lối chặt từ):
Cuối cùng xin nhắc một câu
Văn hóa cơ sở là đầu chúng ta(đầu là hàng đầu)

Lối biến tấu thanh điệu:
Liên hoan có một nải chuồi (chuối)
Ra về nhớ mãi cái "buồi" hôm nay (buổi)

Lối hoan hô:
Hoan hô Trung tá Phạm Tuân
Bay lên vũ trụ một tuần về ngay

Lối biến âm để tạo vần:
Chú về công tác bảo tàng
Cũng là công việc cách màng giao cho(cách mạng)[5]



Hậu Bút Tre

Bút Tre – Đặng Văn Đăng xứng đáng được tôn vinh làm Chủ soái của một trường phái, ở đâu cũng tạo ra những vần thơ Bút Tre để mà vui. Cái hay, cái độc đáo của Thơ Bút Tre là ai cũng có thể sáng tác được, thậm chí còn hay hơn nữa – Hậu sinh khả úy.

Hoan hô đồng chí Bút Tre
Thơ phú ngang phè mà lại hóa hay
Phải chăng trường phái thơ ngây
Làm cho ai cũng mê say thích nghè (nghe)
Ngày nay cuộc sống bộn bề
Nụ cười thuốc bổ: ca vè dân gian
Bởi ai cũng có thể làm
Bút Tre, bút nứa, lại càng bút bi... [5]



Bút Tre Tây

Một ông người Ốt – tra - lây (Australia)
Một ông đích thị là Tây bán nhà (Tây Ban Nha)
Một ông ở xứ buôn gà (Bungari)
Cả ba ông ấy đều là con dê (con rể)
Cùng nhau có một lời thề
Làm con dê cụ không về bên Tây (con rể cụ)[5]



Bút Tre World Cup

Việt Nam rồi sẽ có ngày
Tham gia World Cup đứng đầu bảng A
Thể lực thì có khó gì
Cứ xơi meat dog là ghi được bàn (thịt chó)
Kìa xem đội tuyển Nam Hàn
Xơi nhiều thịt chó nên toàn thắng luôn[5]



Giai thoại

Theo Ngô Quang Nam trong "Lối thơ Bút Tre", NXB Văn Hoá 2000, khi ông Đăng (Bút Tre) làm trưởng ty văn hóa, ông ký quyết định cho ông Nguyễn Lộc ở Hợp tác xã Phùng Nguyên đi học về bảo tàng, ông Lộc không muốn đi, Bút Tre đã gửi cho ông Lộc hai câu:

Chú sang công tác bảo tàng
Đó cũng là việc cách màng giao cho.

Khi chủ tịch Hồ Chí Minh mất, Bút Tre cảm thán:

Bỗng nghe tin sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống, chuyển sang từ trần.

Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng, khi ký tên thường không đánh dấu các chữ tiếng Việt nên viết là Dang Van Dang, mọi người đọc không dấu là Giăng-Van-Giăng, đồng âm với tên nhân vật chính trong "Những người khốn khổ" của Victor Hugo. Từ đó những người cùng cơ quan gọi ông là Giăng Văn Giăng.

Nhà Bút Tre nghèo, ông ngủ trên một cái chõng tre, nhà không cánh cửa, chỉ che bằng phên liếp lá cọ, nghe tin người bạn mất trộm, ông đùa:

Cứ như tớ hoá lại hay
Chẳng lo giữ của cả ngày lẫn đêm
Cửa ngõ không phải cài then
Ai thăm cứ việc đẩy phên mà vào.



Di chúc Bút Tre

“ Tôi dặn, tiễn tôi tới suối vàng
Thưa kèn, giảm trống, chẳng đò ngang
Dứt đường Tây Trúc, kinh thôi tụng
Buông sách Thọ Mai, lễ chẳng màng
Xã hội, cơ quan ngừng phúng viếng
Họ hàng thân thuộc chút khăn tang
Hương thơm, đèn sáng, vòng hoa trắng
Trầm mặc, cử hành đám lễ tang[3]




Chú thích

^ Theo Từ điển Văn hoá Việt Nam (1993), NXB Văn hóa.
^ Giai thoại Bút Tre - Sở Văn hóa Thông tin Vĩnh Phú, 1989.
^ a ă [1] Vè sĩ Bút Tre - Báo Tuổi trẻ online, Thứ Sáu, 26/01/2007, 06:12 (GMT+7)
^ Lối thơ Bút Tre - Nhà Xuất bản Văn hóa, 2000.
^ a ă â b Dân gian truyền khẩu.














Bút tre Đặng Văn Đăng lúc trẻ










Sưu Tầm Các Bài Thơ Bút Tre ! 





Chị em nô nức đặt vòng
Hoa mộ liệt sĩ tỏ lòng biết ơn

Anh đi công tác Cam Pu
Chia chiến lợi phẩm ở tù ba năm

Anh đi công tác bản Mường
Tè xong một cái lên đường về quê

Nhớ nhung về thị xã Phan
Thiết tha mơ tưởng cô hàng nước măm

Chồng người du kích sông Lô
Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần

Con đò dịch đít sang ngang
Bên kia có một cái làng thò ra

Chợ Đồng Xuân có tiếng đồn
Có chị bán trứng vịt lộn rất to

Bướm đồng động đến thì bay
Bướm nhà động đến lăn quay ra giường

Chim đồng bóp cái chết ngay 
Chim nhà mà bóp càng ngày càng to 

Mời anh vào quán kara
OK em đã mở ra sẵn sàng

Trên trời mây trắng như bông
ở dưới cánh đồng mông trắng hơn mây 

Chưa đi chưa biết Cửa Lò
Đi về mới biết nó to thế này

Chị em du kích tài thay
Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa mình

Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ một tuần về ngay

Hôm nay mồng tám tháng ba
Chị em phụ nữ đi ra đi vào
Liên hoan có bánh có chuồi
Ta đi ta nhớ cái buồi hôm nay

Mấy em mặc váy đánh cầu
lông bay phấp phới trên đầu các anh

Anh đi công tác Pờ Lây
Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra
Còn em ở lại Buôn Ma -
Thuột đi thuột lại thằng cha láng giềng

Tiễn anh lên bến ô tô
Đêm về em khóc ... tồ tồ cả đêm"

Không đi không biết Tam Đao (Tam Đảo)
Đi thì không biết chỗ nào mà ngu (ngủ)
Một giường nó nhét hai cu (cụ)
Thôi thì cố nhịn đến chu nhật về

Phụ nữ thường rất hay lươi (lười)
Riêng em anh thấy là người cần... cù

Bắc Ninh có cậu Nguyễn-Trùng-
-Dương, vật khoẻ quá cả vùng thất kinh ...

Ngọt ngào bóc múi em ra
Mời nhau cặp bưởi, chút quà Hùng Đoan









Bút Tre và trường phái thơ bình dân miền Bắc


Hoan hô đồng chí Bút Tre
Thơ phú ngang phè mà lại hóa hay
Phải chăng trường phái thơ ngây
Làm cho ai cũng mê say thích nghè

Không giống với các thi sĩ nổi tiếng của chế độ như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Hoàng Cầm, Xuân Diệu… Bút Tre là người làm thơ theo kiểu dân gian của người miền Bắc thời kháng chiến và hậu kháng chiến.

Phong cách thơ của Bút Tre vừa độc đáo, vừa sáng tạo, vừa dung tục nhưng lại giàu sức lan tỏa trong dân gian. Cũng vì thế, Bút Tre đã trở thành một trường phái thơ dân gian rất thịnh hành ở miền Bắc và cho đến sau này cũng được nhiều người ở miền Nam biết đến.

Dưới đây là bức tranh làng quê qua ngòi bút phác họa của Bút Tre:

Làng ta có cái núi voi
Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi
Voi cũng hăng say đua sản xuất
Đầu thì trồng sắn, đít trồng khoai

Với ngôn ngữ đặc thù của miền Bắc trong thời kỳ đi lên xã hội chủ nghĩa, Bút Tre đã vẽ một bức tranh ‘tăng gia sản xuất’ của một xã điển hình:

Bà con toàn thể xã ta
Ðồng tâm phấn khởi giồng cà dái dê
Dái dê to mập dài ghê
Năm sau ta cứ dái dê ta trồng

Và đây là một buổi học tập chính trị với cách dùng từ ‘sửa dấu, ép vần’ một cách tài tình nhưng cũng pha lẫn chút mỉa mai, dung tục:

Hôm qua học tập chính tri [chính trị]
Cán bộ ngồi ỳ, chẳng chịu phát biêu [phát biểu]
Cơm ăn chẳng được bao nhiêu
Đảng uỷ lại bắt phát biêu cả buồi [cả buổi]

Hoặc tả cảnh quê hương Phú Thọ của ông với đầy đủ đồi chè, đồi cọ… có đàn bò giống nhập từ Cu Ba lang thang gậm cỏ:

Quê Hương thi sĩ Phú Thò [Phú Thọ]
Chè xanh, cọ biếc, mập to trái chuồi [chuối]
Lòng còn nhớ mãi cái buôi [buổi]
Đầu làm phân bắc, chăn nuồi đàn bo [chăn nuôi đàn bò]
Cu Ba lông mượt giống to
Cách màng văn hoá đất tô lại càng...

Bút Tre sống dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa nên thơ ông là tấm gương phản chiếu cuộc sống hàng ngày với những sinh hoạt của một xã hội mà đối với người miền Nam hoàn toàn xa lạ: 

Thi đua ta quyết thi đua
Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi biết đi đâu
Đi đâu không biết, hàng đầu cứ đi

hoặc:

Hội trường yên ắng ngủ say
Thuyết trình vừa dứt… vỗ tay ra về

Khẩu hiệu ‘Hoan hô…’ cũng là một đề tài thường được nhắc đến trong thơ Bút Tre. 

Sự kiện nhà phi hành vũ trụ Phạm Tuân (sinh năm 1947) tại Thái Bình trở thành người châu Á đầu tiên bay vào không gian năm 1980 trong chương trình Intercosmos của Liên Xô, đã được nhiệt liệt hoan hô tại miền Bắc. Ông cũng là một trong số ít người nước ngoài được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Bút Tre góp tiếng hoan hô bằng những lời thơ chất phác:

Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ một tuần về ngay

Trước đó, Liên Xô có con chó Laika là sinh vật đầu tiên được đưa lên vũ trụ và cũng là động vật đầu tiên hy sinh trên quỹ đạo năm 1957. Laika qua đời vài giờ sau khi tàu vũ trụ rời bệ phóng, cái chết được dự đoán là do tình trạng căng thẳng và nhiệt độ tăng cao. Bút Tre cũng có thơ ca tụng chó khi nghe tin qua radio:

Hôm nay đài nói vui thay
Người ở dưới đất, chó bay lên trời

Đến khi Yuri Alekseievich Gagarin (1934–1968) là người đầu tiên trên thế giới thực hiện chuyến bay vào vũ trụ ngày 12/4/1961 trên tàu vũ trụ Phương Đông. Bằng kỹ thuật ‘sửa dấu, ép vần’, Gagarin biến thành Ga Ga Rỉn nên mới có câu:

Liên xô rất đỗi tự hào
Anh Ga Ga Rỉn bay vào vũ tru [vũ trụ]

Bóng đá cũng đi vào thơ của Bút Tre. Gheorghe Hagi là một cầu thủ bóng đá Romania, người nước xã hội chủ nghĩa anh em, nổi tiếng với kỹ thuật cá nhân điêu luyện và những cú sút xa rất chính xác:

Hoan hô đồng chí Hagi
Cách ba mươi mét mà ghi được bàn

Loại thơ ‘Hoan hô…’ còn rất nhiều, từ đồng chí lái tàu Trần Đăng Ấn chạy nhanh như… rùa: 

Hoan hô! đồng chí Trần Đăng
Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa.

đến những người cao tuổi tham gia chiến dịch ‘trồng cây nhớ Bác’:

Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín một cây gật gù.
Chúng mày có mắt như mù
Mười cây chết cả gật gù ở đâu?

Chị em nô nức đặt vòng hoa trên mộ liệt sĩ để tỏ lòng biết ơn đến khi được diễn tả bằng một câu lục bát với kỹ thuật ‘cố ý ngắt từ’ đã trở thành một câu cổ súy cho việc ‘đặt vòng’ qua chương trình kế hoạch hóa gia đình:

Chị em nô nức đặt vòng
Hoa mồ liệt sĩ tỏ lòng biết ơn

Cũng với lối xuống dòng ngang xương một cách cố tình, người đọc không khỏi bật cười với cảnh chơi cầu lông:

Chị em mặc váy đánh cầu
Lông bay phơ phất trên đầu các anh

Phong cách ‘cắt tên, xuống dòng’ xuất hiện khá nhiều trong thơ Bút Tre và cả trong trường phái Bút Tre sau này.

Anh đi công tác Pơ - Lây-
Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra? [Pleiku]
Còn em, em vẫn ở nhà
Cửa mình em mở người ra kẻ vào

Niêm luật lục bát không cho phép một câu dài quá 8 chữ nên tác giả thay vì viết ‘cửa nhà mình’ đành phải rút gọn thành cửa mình… Cũng vì lý do đó, ta lại gặp ‘cửa mình’ trong hai câu:

Chị em du kích tài thay
Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa… mình

Lại nữa, tỉnh Bắc Ninh có Nguyễn Trùng Dương đã giành chức vô địch đô vật trong lễ hội xuân được Bút Tre ca tụng:

Bắc Ninh có cậu Nguyễn Trùng
Dương vật khỏe quá cả vùng thất kinh

Trong thơ Bút tre có đủ cả cửa mình lẫn dương vật, những ngôn từ dung tục đã đi lạc vào thơ. Thế mới gọi là ‘chữ nghĩa’ bình dân, chữ thì tục nhưng nghĩa lại thanh!

Rất nhiều địa danh từ Bắc xuống đến Nam đã được nhắc đến trong thơ Bút Tre nguyên thủy cũng như thơ Bút Tre cải biên. Tại tỉnh Lai Châu thuộc vùng biên giới Việt-Trung có huyện Mường Tè nằm ở phía Tây Bắc, giáp tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Phía Tây và phía Nam huyện Mường Tè giáp huyện Mường Nhé tỉnh Điện Biên. Phía Đông Mường Tè là huyện Sìn Hồ.:

Anh đi công tác bản Mường
Tè xong một cái lên đường về quê

Sông Lô là phụ lưu tả ngạn của sông Hồng, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy vào Việt Nam tại xã Thanh Thuỷ, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Điểm cuối là ngã ba Việt Trì, còn gọi là ngã ba Hạc. Sông Lô ‘anh hùng’ là địa danh nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Pháp qua Trường ca sông Lô của Văn Cao vàTiếng hát sông Lô của Phạm Duy:

Chồng người du kích sông Lô
Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần

Lại nói về danh lam thắng cảnh, Tam Đảo là một dãy núi đá ở vùng Đông Bắc, nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây có ba ngọn núi cao nhô lên trên biển mây, đó là Thạch Bàn, Thiên Thị và Máng Chỉ.


Không đi không biết Tam Đao [Tam Đảo]
Đi thì không biết chỗ nào mà ngu [ngủ]
Một giường nó nhét hai cu [cụ]
Thôi thì cố nhịn đến chu nhật về…[chủ nhật]

Tại Hải Phòng có bãi biển Đồ Sơn là một quận cách trung tâm thành phố khoảng 20 km về hướng đông nam. Đồ Sơn có một khu nghỉ mát gồm nhiều bãi biển có phong cảnh đẹp ở miền bắc ViệtNam. Bút Tre chơi chữ Đồ Sơn và… đồ nhà:

Chưa đi chưa biết Ðồ Sơn
Ði về mới biết chẳng hơn đồ nhà
Ðồ nhà tuy xấu tuy già
Nhưng là đồ thật hơn là Ðồ Sơn

Tỉnh Hà Tĩnh có kẹo Cu Đơ là một loại kẹo lạc (đậu phộng). Kẹo được nấu từ mật mía, đường, mạch nha, gừng có thêm lạc nhân và được đổ vào hai miếng bánh tráng ép lại.
Cái tên Cu Đơ được cho là xuất phát từ xã Sơn Ninh, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, nơi có người đầu tiên làm loại kẹo này. Vốn dĩ kẹo Cu Đơ ban đầu chỉ được gọi đơn giản là kẹo lạc, nhưng được dân gian hay gọi là kẹo Cu Hai để ghi danh người làm ra nó, vốn là một người cha có hai con trai (cu hai). Cái tên Cu Đơ như hiện nay bắt nguồn từ tiếng Pháp Deux (đọc là đơ) có nghĩa là hai.

Chưa ăn chưa biết Cu đơ
Ăn rồi mới biết nó đờ cu ra

Tỉnh Nghệ An chịu ảnh hưởng của gió Lào nên:

Nghệ An nổi tiếng gió Lào
Trẻ già trai gái người nào cũng đen

Cửa Lò là một thị xã thuộc phía đông tỉnh Nghệ An, nổi tiếng với bãi biển, khu nghỉ mát và cảng biển sầm uất. Cửa Lò lớn lắm nhưng vẫn chưa to bằng cửa…:

Chưa đi chưa biết Cửa Lò
Đi về mới biết nó to thế này

Thị xã Phan Thiết là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh Bình Thuận. Phan Thiết nằm trên quốc lộ 1A, cách Sài Gòn 198 km, vốn nổi tiếng về nước mắm:

Nhớ nhung về thị xã Phan
Thiết tha mơ tưởng cô hàng nước măm [nước mắm]

Ban Mê Thuột vốn là thủ phủ của miền cao nguyên cũng được Bút Tre để mắt đến:

Anh đi anh ghé Buôn Mê
Thuột xong một cái thì về với em

Bài lục bát dưới đây về Sài Gòn ngày 30/4/1975, chắc chắn không phải của Bút Tre, nhưng thuộc về trường phái Bút Tre:

Hôm nay giải phóng Sài Gòn
Bà con phấn khởi chạy bon ra đường
Có cô đang ngủ trên giường
Vội vàng tỉnh dậy, bị thường vào tày [bị thương vào tay]
Ô tô cấp kíu đến ngay
Ðưa vào bệnh viện ba ngày thì khoi… [khỏi]

Cách Sài Gòn khoảng 50km có Cần Giờ là một huyện ven biển nằm ở phía đông nam. Huyện Cần Giờ tiếp cận với biển Đông có một khu rừng ngập mặn đan xen với hệ thống sông rạch dày đặc chứa đựng các hệ sinh thái mang tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài động thực vật đặc hữu của miền duyên hải Việt Nam.

Chưa đi chưa biết Cần Giờ
Đi rồi mới biết họ… không cần gì

Thơ Bút Tre còn vói tới các nước lân cận với Việt Nam như Lào và Campuchia. Một cán bộ tham nhũng bị ở tù:

Anh đi công tác Cam Pu
Chia chiến lợi phẩm ở tù ba năm

Loại thơ theo kiểu ‘con cóc nhảy ra, con cóc nhảy vô’ khá phổ biến trong văn chương bình dân Việt Nam. Ở miền Nam có dạng thơ ‘lẩy’ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu như:

Vân Tiên cõng mẹ trở ra
Đụng phải cột nhà cõng mẹ trở vô
Vân Tiên cõng mẹ trở vô
Đụng phải cái bồ cõng mẹ trở ra…

Trong thơ Bút Tre và trường phái Bút Tre, người ta cũng bắt gặp rất nhiều hình ảnh ‘đi vào, đi ra’:

Ở trong hang đá đi ra
Vươn vai một cái rồi ta đi vào

*

Hôm nay mồng tám tháng ba
Chị em phụ nữ đi ra đi vào
Anh em thấy vẫy tay chào
Chị em phấn khởi đi vào đi ra …

Rộng lớn như thể nước Nga
Người ta không cấm thụt ra thụt vào
Nhỏ bé như thể nước Lào
Cũng không có cấm thụt vào thụt ra
Chỉ riêng có Việt Nam ta
Đâu đâu cũng cấm thụt ra thụt vào.

*
Trăm năm trong cõi người ta
Ai ai cũng phải hít ra thở vào
Trăm năm trong cõi người nào
Ai ai cũng phải hít vào thở ra
Xa xa như nước Cu-Ba
Người ta còn phải hít ra thở vào
Gần gần như cái nước Lào
Người ta cũng phải hít vào thở ra
Nói chung trong cõi người ta
Bắt buộc là phải thở ra hít vào.

Bút Tre dí dỏm cho rằng “… loại thơ đứng đắn là thơ nghiêm còn loại thơ tếu là thơ nghỉ”. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, không ít những bài thơ nghiêm được viết để ca tụng nhưng Bút Tre lại có hai câu thơ nghỉ viết theo kiểu ‘huề vốn’:

Bỗng nghe tin sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống, chuyển sang từ trần.

Chính nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã nhắc nhở giới lãnh đạo văn nghệ Vĩnh Phú và Hội Nhà Văn cần phải nghiên cứu nghiêm túc về hiện tượng thơ Bút Tre, vì tác giả của nó, một người có học vấn, không thể vô tình khi hạ bút viết những câu thơ tưởng như ngô ngê, ngớ ngẩn kia.

Bút Tre có tên trong Tự Điển Văn Hóa (NXB Văn Hóa, năm 1993, trang 49). Ông được coi là ‘tấm lòng thơ của một cán bộ văn hóa’ (Lê Huy Ngọ), ‘xứng đáng với danh hiệu nhà thơ dân gian’ (Nguyễn Hữu Nhân), ‘ông là nhà văn hóa mà dòng đời của ông đắm mình trong dòng văn hóa dân gian’ (Ngô Quang Nam).

Có người lại nói ông Đặng Văn Đăng vốn là dân tập kết từ miền Nam ra Bắc, quê ông ở Bến Tre nên mới lấy bút hiệu Bút Tre (!). Có lẽ vì quá ngưỡng mộ tài làm thơ của ông nên mới có trường hợp ‘nhận vơ’ như vậy. Tuy nhiên, nếu Bút Tre là người miềnNam thật thì hai câu thơ cổ động bầu cử tự do của ông lại càng thâm thúy:

Ta đi bầu cử tự do
Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm

Người miền Bắc dùng chữ hòm để chỉ cái thùng, cái hộp trong khi đó ở miền Nam hòm lại là quan tài dành cho người chết. Thế cho nên, chọn người xứng đáng mà cho vào hòm hiểu theo người miềnNam thì… hết nước nói!

Có thể nói, phong trào làm thơ Bút Tre theo lối “cưỡng từ đổi nghĩa, sửa dấu ép vần” là độc nhất vô nhị của văn học Việt Nam. Cốt lõi của dòng thơ là tính trào phúng và chất dung tục. Khi thì tục lồ lộ, khi thì tục mà thanh, khi thì thanh mà tục… đáp ứng được thị hiếu của người đọc cần những nụ cười sảng khoái để quên đi những khoảnh khắc lầm than. Tuy nhiên, có điều người làm thơ Bút Tre cần ghi nhớ:

Làm thơ nên tránh vần ồn
Kẻo không lại đụng cái … chị em













Về hiện tượng thơ Bút Tre

Thân Trọng Sơn


Có người gọi là trường phái thơ Bút Tre, có người lại nói dòng thơ Bút Tre, tuy không hề có lý thuyết, tuyên ngôn, không hề có chủ soái, thủ xướng phong trào, đơn giản chỉ vì cứ nghe những câu như thế này thì ai cũng biết : 

Thi đua ta quyết tiến lên
Tiến lên, ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu không biết đi đâu
Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi

Con đò dịch đít sang ngang
Bên kia có một cái làng thò ra.

Anh đi chiến dịch bản Mường
Tè xong rồi lại tìm đường về xuôi.

Phụ nữ thường rất hay lươi
Riêng em anh thấy là người cần cu.

Thơ Bút Tre tất nhiên là thơ của tác giả Bút Tre nhưng đồng thời cũng là thơ của ... ai đó không biết làm theo kiểu Bút Tre ( những câu trên thuộc cả hai trường hợp này).

Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đang ( 1911-1987 ), người xã Đồng Lương, Sông Thao, Vĩnh Phú. Từng đỗ Tú tài Pháp, từng viết báo, in sách, dạy học, từng công tác trong ngành văn hóa, có khi lên đến chức trưởng ty. Và công việc này hẳn là nhiều lúc yêu cầu Ông phát biểu ý kiến, mà Ông lại thích phát biểu bằng ... thơ. Đại loại như thế này, nói về nhiệm vụ của ngành văn hóa hoặc ca ngợi lao động sản xuất, hô hào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp :

Bây giờ đang đứng trưởng ty
Bút Tre thơ phú tôi thì có sau
Cuối cùng xin nhắc một câu
Văn hóa cơ sở là đầu chúng ta.

Ông Khiêm kể cũng đã tài
Trong chuồng sáu lợn có vài con to
Ông Lai theo Đảng dặn dò
Chuồng ông bảy lợn chăm cho béo tròn.

Những câu "thơ" như thế chắc là không sống được lâu, nhưng Ông vẫn tiếp tục làm và nhiều lúc là ứng tác, kịp thời phản ánh một sự kiện, ca ngợi một nhân vật nào đó :

Anh đi đồng ruộng lắng nghe 
Lúa mừng phân bắc, khoai che mảnh vườn. 
( Anh đây là Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương Nguyễn Chí Thanh ).

Chú sang công tác bảo tàng
Đó cũng là việc cách màng giao cho.

Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về.

Nhiều người thấy là lạ, ngồ ngộ cái kiểu thơ đó : hình ảnh, chữ nghĩa bất ngờ, ngắt câu hạ chữ độc đáo, và nhất là cái lối đổi thanh, đổi dấu cho hợp luật trắc bằng. Mà thú vị nhất là những câu như thế chỉ được "xuất bản miệng" cho nên thiên hạ mặc sức "tái bản" và tự dành quyền chỉnh sứa, thêm thắt . Nếu "anh đi đồng ruộng lắng nghe" có người không biết anh nào đây thì cứ nói rõ ra :

Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân bắc phân xanh đầy đồng.

Và từ đó hoan hô tiếp :

Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ một tuần về ngay.

Hoan hô đồng chí Trần Hoàn
Lên làm bộ trưởng chiếu toàn phim hay !

Hoan hô bác Võ Chí Công
Cho làm khoán hộ ruộng đồng tốt tươi.

Chẳng thấy ai đòi bản quyền, mà thật ra làm sao biết được ai là tác giả đầu tiên, cứ thấy thích thì mô phỏng và sáng tác thêm, và cứ thế dần dà lúc này lúc khác, chỗ nọ chỗ kia lan truyền những bài thơ, câu thơ kiểu như vậy để hình thành một hiện tượng gọi là thơ Bút Tre dân gian. Qua bao nhiêu bài được phổ biến ta có thể rút ra mấy đặc điểm sau đây :

1. Đầu tiên là việc sử dụng những hình ảnh sáng tạo, bắt nguồn từ những liên tưởng bất ngờ, có khi tưởng như ngây ngô nhưng ngầm dụng ý gây cười :

Tiễn anh lên bến ô tô
Đêm về em khóc ... tồ tồ cả đêm

Nhớ quê ra đứng đỉnh đèo
Bỗng đâu thấy một chú mèo gâu gâu
Dừng chân đứng lại trên cầu
Bỗng đâu thấy một con trâu vàng vàng

Hôm nay trên quốc lộ hai
Thể nào cũng có một vài ô tô.

Ta đi bầu cử tự do
Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm


Anh đi giường chiếu lặng câm
Anh về giường chiếu reo ầm cả lên 

Anh đi em bấm đốt tay
Anh về em bấm chỗ này chỗ kia.

2. Thứ hai là những câu thơ viết sai vần. Nên biết rằng luật thơ lục bát thường yêu cầu phải có vần : chữ thứ sáu của câu "lục" phải cùng vần với chữ thứ sáu của câu "bát", rồi chữ cuối của câu "bát" lại vần với chữ cuối của câu "lục" tiếp theo.

Cô em má đỏ hồng hồng
Buôn xuôi bán ngược có chồng hay chưa ?
Xe đò ai đón ai đưa ?
Mà em đi sớm về trưa một mình. 
( Bàng Bá Lân ).

"Hồng" và "chồng", "chưa", "đưa" và "trưa" : tất cả đều cùng một âm, như thế là vần chính.

Đèo nhau ta dạo phố vui
Thong dong xe đạp ngược xuôi dòng đời
Chở theo khúc khích tiếng cười
Chuyện trò như thể không người chung quanh. 
( Diệp Minh Tuyền )

"Vui" và "xuôi", không cùng âm mà chỉ tương tự, "đời" và "cười" cũng vậy, như thế gọi là vần thông.

Còn không cùng âm mà cũng không có âm tương tự thì đích thị là thơ lạc vận, thơ sai vần.

Phải đâu muốn được ai yêu
Là tôi cứ nói dông dài trước sau .
 
( LMQ)
( Muốn cho có vần thì viết : Là tôi cứ việc nói nhiều nói dai, chẳng hạn.)

Lạc vận có thể vì bí, có thể vì trọng ý tứ nên hy sinh vần điệu. Nhưng thơ Bút Tre thì lạc vận một cách cố ý, để cho người đọc tự sửa lại cho có vần :

- Khen thay giám đốc sở mình
Làm việc thì ít xuất... ngoại thì nhiều.

- Đồ Sơn sóng biển dập dồn
Mấy cô thiếu nữ ngứa chân chạy quanh. 
( hoặc : ... ngửa lưng ra phơi ).

( Thì cũng giống như Vân Tiên ngồi cạnh bụi môn / Chờ cho trăng khuất bóp ...chân Nguyệt Nga , chọn chữ nào cho hợp vần ở đây thật là gay, chả thế mà người ta dặn nhau : "Làm thơ nên tránh vần "ôn" / Uống rượu nên tránh làm ồn nói to ! )

- Trên cành con khỉ đánh đu,
Có anh cán bộ vạch cây bên đường.


( Hai câu này khiến ta liên tưởng đến khổ thơ đầu của bài "Con cá nhỏ và người đánh cá ", Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine : 

Miễn là cá sống dưới hồ
Cỏn con cũng có ngày to kếch xù
Nhưng mà cá đã cắn cu
Thả ra tôi nghĩ còn ngu nào tày.

"cắn cu" nghĩa là "cắn câu " ! )

3. Đổi dấu các chữ cho hợp luật thơ ( Tam Đao hiểu là Tam Đảo, cần cu thay cho cần cù ...) bởi lẽ thơ lục bát yêu cầu viết đúng luật bằng (B) trắc (T) .

Câu lục : Các chữ thứ 2, 4, và 6 : - B - T - B

Câu bát : Các chữ thứ 2, 4, 6, và 8 : - B - T - B - B

Mặt khác, hai chữ thứ 6 và 8 của câu bát tuy cùng là Bằng nhưng phải khác thanh, nếu chữ thứ 6 không dấu ( phù bình thanh ) thì chữ thứ 8 phải dấu huyền ( trầm bình thanh ), và ngược lại.

Bốn câu thơ sau đáp ứng tất cả yêu cầu về bằng trắc và về thanh nói trên :

Nắng chia (B) nửa bãi (T) chiều rồi (B)
Vườn hoang (B) trinh nữ (T) khép đôi (B) lá rầu (B)
Sợi buồn (B)con nhện (T)giăng mau (B)
Em ơi (B)hãy ngủ (T) , anh hầu (B) quạt đây (B). 
( Huy Cận )

Cái việc sửa dấu thế này trong thơ Bút Tre có lúc làm cho chữ mang một nghĩa khác :

Một lần đến nghỉ Tam Đao,
Loanh quanh không biết chỗ nào để ngu.
Một giường bố trí hai cù
Mỗi cù kiếm một cái mu gối đầu. 
( hoặc : Sướng khô đành chịu đến chu nhật về ).

Ngày nay khắc phục gian kho
Ngày mai mới có ấm no tương lài.

Liên Xô rất đỗi tự hào
Anh Ga-ga-rỉn bay vào vũ tru.

Đoàn vừa ghé xuống Mũi Ne
Ngó ra thấy những chiếc ghe thật bừ.

4. Ngắt câu, xuống dòng bất ngờ. Dòng trên chưa hết ý, phải đọc tiếp dòng sau mới hiểu, kiểu như " Lúa ở đồng tôi và lúa ở / Đồng nàng và lúa ở đồng quanh" - Nguyễn Bính ).

Nhớ nhung về thị xã Phan
Thiết tha tơ tưởng cô hàng nước măm.

Anh đi công tác Cam Pu
Chia chiến lợi phẩm ở tù ba năm.

Mời anh vào quán kara
OK em đã mở ra sẵn sàng.

Mấy em mặc váy đánh cầu
Lông bay phất phới trên đầu các anh.

Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ chăn vịt thấy cha chăn ngồng
Thấy em hát nhạc Trịnh Công
Sơn xanh sơn đỏ anh không dám vào.

Lần đầu đến nước Xin-Ga
Po vào rồi lại po ra hại đồ
Tuần sau lại đến nước Bồ
Đào Nha rồi lại đào nhô mệt quà
Thế rồi lại đến nước Hoa
Kỳ đi kỳ lại Cu Ba đây rồi.

Cũng có khi dòng trên đã có nghĩa, nhưng nối với dòng sau lại là nghĩa khác :

Chị em nô nức đặt vòng
Hoa mộ liệt sĩ tỏ lòng biết ơn.

Tại vì em chẳng có kinh
Nghiệm nên không thể một mình giúp anh.

5. Từ một bài, một câu thơ Bút Tre không rõ tác giả, mọi người có thể thêm bớt, mô phỏng và đưa ra câu khác, không ngại ai nói đạo văn, đạo thơ gì.

Hai câu sau đây, phổ biến từ lâu, hầu như ai cũng biết :

Anh đi công tác Pơ Lây
Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra.

được ai đó thêm vào :

Còn em em ở lại nhà
Cửa mình em mở người ra người vào.

( chắc là lấy cảm hứng từ câu : Chị em du kích tài thay / Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa mình !)hoặc sửa một chữ rồi viết tiếp :

... Ku dài dằng dặc biết ngày nào vê
Anh đi công tác Buôn Mê
Thuột xong một cái anh về với em.

Cũng mấy câu quen thuộc khác :

Chưa đi chưa biết Đồ Sơn
Đi rồi mới biết chẳng hơn đồ nhà
Đồ nhà tuy có hơi già 
( hoặc : tuy rất tương cà )
Nhưng là đồ thật chẳng là đồ sơn.

Và nhiều người tiếp tục cải biên :

Chưa đi chưa biết Vũng Tàu
Đi rồi mới biết ta giàu hơn tây
Đúng là họ thiếu vải may
Hai mảnh bé xíu làm vày làm ao.

Chưa đi chưa biết Cà Mau
Đi rồi mới biết không đâu bằng nhà
Cà nhà tuy có hơi già
Nhưng là cà chậm không là cà mau.

Từ hai câu " Nhớ nhung về thị xã Phan / Thiết tha tơ tưởng cô hàng nước măm ", có người đã nối theo :

Vội vàng về thị xã Phan
Rang ngay đậu phụng đón bàn tới thăm.

Và :

Gặp nhau ở thị trấn Phan
Rí ra rí rủm chuyện vàn suốt đêm.

Có thể nói đặc điểm thứ năm này đã làm nên sức sống cho thơ Bút Tre, làm cho nó tồn tại, phát triển, lan truyền rộng khắp. Ai cũng đã từng nghe, từng thuộc, từng làm, từng phổ biến loại thơ này, trong Nam ngoài Bắc, người già người trẻ, trí thức bình dân, có cơ hội là viết cho nhau đọc, đọc cho nhau nghe để cùng cười với nhau. Có khi chỉ là tiếng cười dễ dãi, vô thưởng vô phạt.( Chồng người du kích sông Lô / Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần ). Mà đâu chỉ có vậy, đọc đi rồi đọc lại, nghe qua và nghe nữa thì mới thấy tiếng cười của thơ Bút Tre là tiếng cười của truyện tiếu lâm dân gian, của hò vè, ca dao. Nó phản ánh muôn mặt đời sống xã hội một cách trào lộng, châm biếm và nhiều khi ngụ ý phê phán nữa. Người ta thích câu 

"Mừng ngày bầu cử tự do / 
Những người xứng đáng thì cho vào hòm " 

đâu phải chỉ vì tác giả chơi chữ ( hòm = hòm phiếu, thùng phiếu, và hòm = quan tài ) ! Nhiều câu nghe có vẻ ngây ngô, ngớ ngẩn ( Từ trong hang đá đi ra / Vươn vai một cái rồi ta đi vào ) nhưng phải chăng chỉ là sự ngớ ngẩn giả vờ để diễu cợt. ( "... Hàng đầu không biết đi đâu / Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi." " Mấy ông lãnh đạo của mình / Trước rất ghét Mỹ nay hình như thương !" ).

Trên hết thảy vẫn là cái thông minh, dí dỏm thường thấy trong văn học dân gian, không hề thô sơ, thô thiển mà đầy tính nghệ thuật , với nhiều biện pháp tu từ, chơi chữ , nào điệp âm điệp ngữ, ngoa ngữ, nói lái, nào từ đống âm, từ nhiều nghĩa, chuyển đổi từ loại ...

Bốn ông chung một dĩa lòng
Lợn ngồi chễm chệ bên thùng bia hơi.

Con ruồi là giống hiểm nguy
Bốn chân của nó rất vi trùng nhiều.

I-meo anh viết thật bay
Bướm em mong đợi cả ngày lẫn đêm.


Nhà máy sản xuất nhiều mu
Để đem đi bán các chu đội đầu
An toàn ta nhắc nhở nhau
Hễ đi xe máy hàng đầu là mu .

Tất nhiên bên cạnh những người thích thơ Bút Tre vẫn có người không thích, thậm chí chê, nhưng ai cũng phải thừa nhận : hiện tượng thơ Bút Tre, với những đặc điểm về hình thức và nội dung như trên, là có thật, một hiện tượng khá độc đáo chưa từng thấy trong văn học nước nhà. Thơ Bút Tre đã và vẫn đang đi vào quần chúng.

Khen chê thì cũng chẳng sao
Thơ Bút Tre vẫn đi vào quần chung
Chê khen có sái có đùng
Thơ Bút Tre vẫn quần chùng mà ra !
Thân Trọng Sơn










Bút tre Đặng Văn Đăng












Trở về








MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.